(Thethaovanhoa.vn) - Phát biểu tại diễn đàn Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà nêu rõ: Việc đổi mới cơ cấu kinh tế chính là xác lập vị trí mới của vấn đề môi trường. Trước đây, môi trường thường đi sau các hoạt động phát triển, "phát triển trước, làm sạch sau".
- Thanh Hóa: Ô nhiễm môi trường nghiêm trọng do cá chết hàng loạt
- Báo động 'đỏ về ô nhiễm môi trường biển
- Xử phạt 3 cơ sở gây ô nhiễm môi trường sông Bưởi gần 4 tỷ đồng
Hiện nay, vấn đề môi trường cần đi trước và đi ngay vào quá trình đó. Vấn đề bảo vệ môi trường phải nằm ngay trong từng dự án đầu tư, trong chiến lược, quy hoạch phát triển. Xu hướng của thế giới là nền kinh tế xanh và kinh tế các bon thấp cũng khẳng định mối quan hệ cơ cấu giữa kinh tế, phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường, phải đầu tư vấn đề môi trường ngay từ đầu.
Hoàn thiện các thể chế
Năm 2016, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã kết thúc thanh tra 137 cơ sở, từ hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp cho đến các ngành xả thải nhiều như khai thác khoáng sản, hóa chất, giấy, dệt nhuộm… Qua đó cho thấy trong thời gian tới cần các biện pháp quyết liệt trong thực hiện nghiêm Luật Bảo vệ môi trường, cũng như việc thực hiện, hoàn thiện đồng bộ các giải pháp từ đánh giá tác động môi trường, giám sát chặt chẽ chất lượng môi trường, vấn đề thông tin môi trường...
Đề cập những giải pháp căn cơ có thể ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm tại các khu công nghiệp hiện nay, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Võ Tuấn Nhân cho rằng, trước hết cần hoàn thiện các thể chế về bảo vệ môi trường; rà soát, sửa đổi, ban hành bổ sung các văn bản chính sách, pháp luật đặc thù về môi trường, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường 2014, cũng như tiếp tục hoàn thiện tổ chức, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý môi trường ở cấp Trung ương và địa phương, nhằm khẳng định vai trò của Bộ Tài nguyên và Môi trường thống nhất quản lý Nhà nước về môi trường.
Do đó, việc Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và các luật có liên quan đến bảo vệ môi trường là cần thiết, bởi cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nhận thức về bảo vệ môi trường của mọi tầng lớp nhân dân ngày một nâng cao, yêu cầu bảo đảm phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường trở nên cấp thiết. Trong khi đó, các vấn đề môi trường diễn biến ngày càng nhanh, phức tạp và khó lường, đòi hỏi pháp luật bảo vệ môi trường phải sớm được cập nhật, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện.
Qua thực tiễn triển khai thực hiện Luật đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần thiết phải sửa đổi, bổ sung để bảo đảm phù hợp với thực tế, tháo gỡ khó khăn cho bộ, ngành, địa phương và các đối tượng liên quan. Một số quy định trong pháp luật về bảo vệ môi trường còn chưa sát thực tế, thiếu cụ thể dẫn đến chậm đi vào cuộc sống, không theo kịp yêu cầu phát triển của thực tiễn. Bên cạnh đó, các quy định bảo vệ môi trường được quy định ở nhiều luật khác nhau (như Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoáng sản…), nhưng giữa các luật này còn một số điểm còn có sự giao thoa, chưa thống nhất, còn một số khoảng trống chưa được quy định đã ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường chưa theo kịp, phù hợp và đồng bộ với thể chế kinh tế thị trường.
Các loại thuế, phí về môi trường theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả chi phí xử lý, khắc phục, cải tạo và phục hồi môi trường”, “người hưởng lợi từ giá trị môi trường phải trả tiền” mới chỉ bước đầu tạo nguồn thu cho ngân sách, mà chưa phát huy được vai trò công cụ kinh tế điều tiết vĩ mô, hạn chế các hoạt động gâyô nhiễm, suy thoái môi trường, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo hướng tăng trưởng xanh. Chưa tạo ra hành lang pháp lý và môi trường thuận lợi để khuyến khích phát triển dịch vụ môi trường, sản phẩm thân thiện với môi trường, khuyến khích xã hội hóa trong một số hoạt động bảo vệ môi trường.
Mặt khác việc phân công, phân cấp thẩm quyền trong quản lý chất thải vẫn còn chồng chéo và chưa hợp lý, chưa đi đôi với tăng cường năng lực, phân định rõ trách nhiệm. Việc phân công, phân cấp trách nhiệm, thẩm quyền trong việc giải quyết các sự cố môi trường có tính liên vùng, liên ngành chưa được quy định cụ thể, rõ ràng dẫn đến sự phối hợp không nhất quán, còn lúng túng, hiệu quả chưa cao khi có sự cố môi trường xảy ra. Các quy định của pháp luật mới chỉ chú trọng trách nhiệm từ phía Nhà nước, thiếu cơ chế phù hợp để phát huy hiệu quả sự tham gia của toàn xã hội, từng doanh nghiệp và người dân đối với công tác bảo vệ môi trường...
Chú trọng giải pháp phòng ngừa
Theo ông Nguyễn Thượng Hiền, Cục trưởng Cục Quản lý chất thải và Cải thiện môi trường, Tổng cục Môi trường, để các khu công nghiệp không còn là tác nhân gây ô nhiễm môi trường, ngay từ đầu phải thực hiện việc quy hoạch, dịch chuyển các khu công nghiệp, vùng công nghiệp tới những khu đất biệt lập, nằm xa khu dân cư, vùng ngoại thành chính là yếu tố cần thiết để bảo vệ và có biện pháp cách ly, xử lý an toàn môi trường. Giải pháp này còn giúp môi trường quanh khu công nghiệp, môi trường sống của người dân trong tương lai được an toàn, bền vững hơn; đồng thời thay đổi liên tục những quy trình xử lý chất thải môi trường, ưu tiên những dây chuyền sản xuất thân thiện, xanh, sạch với môi trường sống để đảm bảo môi trường tại các khu công nghiệp, không ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường sống xung quanh.
Công tác quy hoạch phải được phân theo loại hình sản xuất để dễ dàng quản lý, nhất là thu gom chất thải, áp dụng công nghệ sản xuất, xây dựng hệ thống xử lý chất thải; nâng cao năng lực, trang bị đầy đủ các trang thiết bị, phương tiện cần thiết, bố trí nguồn kinh phí để duy trì thường xuyên các hoạt động giám sát nhằm phát hiện các trường hợp vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm để xử lý kịp thời, thỏa đáng.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Trình, Viện Khoa học Môi trường và Phát triển đề xuất, nên chú trọng giải pháp ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm tại các khu công nghiệp, trong đó bao gồm các nhóm giải pháp hỗ trợ quan trọng. Theo đó, các nhóm giải pháp về phòng ngừa ô nhiễm cần ưu tiên thực hiện trước, các giải pháp về xử lý là bước tiếp theo khi phòng ngừa chưa đạt hiệu quả. Trước hết là thực hiện nhóm giải pháp phòng tránh các tác động xấu. Đây là giải pháp quan trọng giúp các cơ quan chức năng quyết định liệu có nên cấp phép cho dự án công nghiệp đó hay không, thông qua việc xem xét lựa chọn vị trí dự án tránh gây tổn thất cho các hệ sinh thái hoặc kinh tế - xã hội và lựa chọn công nghệ dự án thân thiện môi trường. Muốn vậy, công tác đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá tác động môi trường phải được cải thiện, đảm bảo có tính khoa học, tập trung, khả thi, công khai và có sự tham gia của các bên liên quan. Đây là điều còn rất hạn chế trong đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá tác động môi trường hiện nay.
Nhóm giải pháp ngăn ngừa, hạn chế phát sinh chất thải công nghiệp bao gồm các giải pháp chính hạn chế phát triển các nhóm ngành có nguy cơ cao gây ô nhiễm, suy thoái môi trường cao. Đó là từng bước xây dựng hạ tầng, môi trường pháp lý thuận lợi cho nền kinh tế xanh (kinh tế ít cacbon), có các chính sách thúc đẩy, hỗ trợ khu vực kinh tế xanh phát triển; áp dụng rộng rãi các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm “trước đường ống” đối với các công ty, dự án lớn bằng công nghệ sạch hơn. Kiểm toán chất thải, kiểm toán năng lượng, kiểm toán môi trường…; xây dựng và áp dụng các chính sách ưu đãi về tài chính, thuế, xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp thân thiện môi trường.
Giảm thiểu các tác động xấu do ô nhiễm công nghiệp khi không thể tránh được bằng phát triển các công nghệ xử lý chất thải, xử lý ô nhiễm tại nguồn và xử lý vùng bị ô nhiễm. Xây dựng và triển khai các chính sách phát triển ngành “công nghiệp môi trường” của Việt Nam nhằm đáp ứng phần lớn các nhu cầu xử lý chất thải công nghiệp. Quy hoạch, xây dựng và vận hành các trung tâm lưu trữ và xử lý chất thải rắn công nghiệp, chất thải rắn nguy hại tại mỗi tỉnh, thành phố hoặc liên tỉnh, đáp ứng nhu cầu bức bách của các doanh nghiệp công nghiệp.
Các cơ quan chức năng cần tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra pháp luật về công tác bảo vệ môi trường, xử lý các nguồn chất thải tại các khu công nghiệp. Hơn nữa, việc xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm, cũng như kiên quyết đình chỉ hoạt động hoặc cấp phép hoạt động theo quy định của pháp luật. Chỉ cho phép xây dựng các nhà máy, dự án trong khu công nghiệp sau khi đã hoàn thành cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các công trình bảo vệ môi trường là những việc làm hết sức cần thiết.
Chánh Văn phòng Tổng cục Môi trường Hồ Kiên Trung cho biết, Tổng cục Môi trường đã công bố đường dây nóng để tiếp nhận phản ánh, kiến nghị về ô nhiễm môi trường. Như vậy, khi phát hiện những hành vi xả chất thải gây ô nhiễm môi trường, các vụ việc ô nhiễm, suy thoái môi trường, người dân có thể gọi ngay đến đường dây nóng này. Sau khi tiếp nhận phản ánh của người dân, các thông tin phản ánh, kiến nghị về ô nhiễm môi trường sẽ được chuyển tới cơ quan chức năng của Tổng cục Môi trường, cơ quan quản lý nhà nước về môi trường của địa phương để xác minh, xử lý, phản hồi trong thời gian sớm nhất. Đây cũng là một trong những giải pháp thiết thực và hiệu quả ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Văn Hào
Tags