Khi Prince qua đời năm 2016, ông để lại một khoảng trống mênh mang trong cuộc sống của những người yêu nhạc. Tất cả đều buốt nhói khi nữ diễn viên kỳ cựu Whoopi Goldberg viết lời tưởng niệm ông: “Điều này nghe như khi những chú chim bồ câu khóc”. Chỉ một câu nhưng như mở ra cả biểu tượng về Prince.
Câu nói này trích từ lời hit năm 1984 của Prince When Doves Cry. Có điều, chính xác là Prince muốn nói gì qua biểu tượng này thì không ai dám chắc.
Thế giới phải kinh hãi
Prince viết album rực rỡ nhất trong sự nghiệp của mình vào đầu thập niên 1980, Purple Rain - được Rolling Stone xếp thứ 8 trong danh sách 500 Album vĩ đại nhất mọi thời đại. Album cũng đóng vai trò như nhạc cho bộ phim bán tiểu sử cùng tên về Prince.
Tại thời điểm cả album Purple Rain và bộ phim đã hoàn thiện, Prince vẫn chưa bơi ra khỏi dòng sáng tạo và vào những phút cuối cùng, ông quyết định thêm vào một ca khúc hoàn toàn mới: When Doves Cry. Không những thế, ông còn chọn nó làm đĩa đơn đầu tiên cho toàn bộ album. Đây quả là quyết định táo bạo bởi ngay cả với tiêu chuẩn khác thường của Prince, When Doves Cry cũng vô cùng lập dị.
Sinh ra trong một gia đình nghệ thuật, được bố mẹ ủng hộ từ nhỏ nên Prince sớm có khả năng chơi nhiều nhạc cụ ở trình độ đáng nể. Đam mê nóng bỏng với When Doves Cry đưa ông tới quyết định một mình chơi toàn bộ nhạc cụ trong ca khúc là guitar, dương cầm, synthesizer, trống máy Linn LM-1 và bass.
Kỹ sư thu âm Peggy McCreary vẫn còn nhớ như in giai đoạn Prince một mình làm When Doves Cry: “Ông ấy thường dượt qua ca khúc với chỉ đàn dương cầm và giọng hát. Đôi khi, ông chơi trống rồi bass. Căn phòng lúc nào cũng phải sắp đặt đầy đủ và bạn luôn phải sẵn sàng cho bất cứ thứ gì ông ấy muốn. Nó rất tự phát. Bạn phải ở đó với ông ấy - điều vừa khó khăn vừa thú vị. Nhưng khi kiệt sức, khó mà hào hứng nổi. Đó là khoảng thời gian dài nhất tôi từng làm với ai trong đời. Tôi đã làm việc suốt 24 giờ. Ông nói đôi khi lý do duy nhất ông về nhà là để tôi có thể ngủ”.
Thế nhưng, sau khi một mình thu âm xong giai điệu buồn bã của When Doves Cry, Prince bỗng có một quyết định không ai hiểu được: Ông bỏ hết phần bass của ca khúc. Được công nhận là một trong những nhà lập trình trống máy vĩ đại nhất thời đại của mình, ông đã để phần trống lấp đi cả phần bass. McCreary nhớ Prince đã cười ngoác tận mang tai trong phấn kích khi nói: “Không ai đủ can đảm để làm điều này. Cứ chờ mà xem. Họ sẽ kinh hãi”. Ngay cả trước khi When Doves Cry chào đời, Prince đã có niềm tin chắc nịch rằng nó sẽ là hit, và là một hit đột phá.
Quả thật, khi Purple Rain phát hành, mọi người đều choáng ngợp trước tính thử nghiệm không ngờ của nó, đặc biệt là sự vắng bóng của bass trong When Doves Cry. Nhưng đó chắc chắn không phải một thử nghiệm điên rồ bởi When Doves Cry lập tức được yêu thích, trở thành No.1 đầu tiên của Prince ở Mỹ. Ca khúc đứng đầu BXH trong suốt năm tuần của Hè năm 1984, kìm chân một hit cũng rất đình đám khi đó là Dancing In The Dark của Bruce Springsteen ở vị trí No.2. Hay là, ngay chính Springsteen cũng không phiền lòng vì điều đó. Là một fan của Prince, Springsteen không bận tâm khi đứng sau thần tượng mà ngược lại, cảm thấy: “Mỗi khi đi xem show của ông ấy, tôi luôn khiêm nhường rời đi”.
Mãi về sau, Prince mới thành thực rằng quyết định bỏ phần bass không phải dễ dàng: “Đôi khi đầu bạn như chia hai ngả – bản ngã nói với bạn một đằng, phần còn lại nói một nẻo. Bạn phải đi theo cái bạn nghĩ là đúng”.
MV từng gây nhiều tranh cãi của “When Doves Cry”:
Bồ câu khóc
Trong phim Purple Rain, When Doves Cry vang lên ở cảnh nhân vật chính đánh mất người yêu (Apollonia) vào tay tình địch. Phân cảnh này ngoài chạy vụt qua những khoảnh khắc thân mật với Apollonia (như người ta nói nhìn thấy cả cuộc đời tua nhanh trước khi chết) còn hé lộ cả mối quan hệ hỗn loạn của Prince với bố đẻ.
Không rõ phim dựa trên bao nhiêu phần trăm đời thực bởi Prince vốn là người hiếm khi nói về đời tư cũng như ẩn ý trong các ca khúc của mình. Dù vậy, có thể thấy ca từ When Doves Cry bám rất sát vào cảnh quay. Nó mở màn bằng hình ảnh đẫm mồ hôi tình ái – điều từng khiến dư luận và nhà đài tranh cãi vì quá trần tục (Prince phủ nhận: “Mọi người nghe thấy gợi dục nhiều hơn những gì tôi thật sự viết trong các ca khúc”). Prince ngay sau đó đã nâng tình yêu lên tới mức huyền ảo bằng hình ảnh biển hoa violet (vốn là biểu tượng về tình yêu) nở rộ và động vật kinh ngạc trước sức nóng từ hai người yêu nhau (Một hình ảnh rất giống trong Trăm năm cô đơn của Garcia Marquez).
Thế nhưng, ảo ảnh nhanh chóng biến mất bằng hiện thực nghiệt ngã: “Có lẽ anh đã đòi hỏi quá nhiều/ Gia trưởng y như bố anh/ Còn em thì y như mẹ anh/ Bà ấy không bao giờ hài lòng”. Tới đây, hình ảnh biểu tượng xuất hiện: “Tại sao chúng ta lại gào vào mặt nhau như vậy?/ Điều này nghe như/ Khi những chú chim bồ câu khóc”.
Prince không bao giờ nói về hình ảnh kinh điển này, vậy nên, người nghe chỉ có thể phán đoán qua những quan niệm chung về bồ câu. Là một người say mê những biểu tượng, Prince hẳn biết rõ bồ câu là biểu tượng cho hòa bình, một khởi đầu mới mà quá khứ xấu xí sẽ bị thế chỗ bởi tương lai tốt đẹp. Bồ câu cũng tượng trưng cho tình yêu đôi lứa vĩnh cửu.
- Ra mắt hồi ký tiết lộ nhiều góc khuất ‘The Beautiful Ones’ của Prince
- 'Piano And A Microphone 1983' của Prince: Nghe một tài năng lớn lao trải lòng
Vậy có nghĩa gì khi những con chim bồ câu than khóc? Có giống như một thiên thần sã cánh hay như khi con hạc - hiện thân của cái đẹp vĩnh hằng - đậu xuống bậc thềm đau khổ của cuộc sống? Một hình ảnh bất lực tột cùng khi biểu tượng vĩnh cửu cũng không cứu vãn được những rạn nứt li ti? Người ta vốn chỉ nghĩ tới hạnh phúc mỗi khi thấy bồ câu, đã có ai nói tới nước mắt để hiểu điều này. Rõ ràng, đó là dấu hiệu của tan vỡ nhưng liệu có như phượng hoàng, tiếng khóc lụi tàn của nó đồng thời cũng là tiếng khóc tái sinh? Chim bồ câu, ngay cả khi khóc, cũng đang gửi đi thông điệp về sự hi vọng?
Một lần nữa, không ai biết chắc Prince muốn nói gì khi để chim bồ câu khóc. Trên thực tế, bố mẹ của Prince không sống với nhau được bao lâu và bản thân Prince cũng hai lần đổ vỡ chóng vánh. Nhưng chẳng phải, bản chất (và sức mạnh) của các biểu tượng lớn đều như vậy: Nó không để cho người ta thấu suốt. Ta không thể nắm lấy nó mà chỉ có thể cảm nhận những rung động lan từ ngày này qua tháng kia, vương vấn không rời xa. Nhưngchắc chắn, đó là một trong những lý do tạo nên sự bất diệt của When Doves Cry - ca khúc được Rolling Stone xếp trong danh sách 500 Ca khúc vĩ đại nhất mọi thời đại.
Majesty và Divinity Ngoài đời, bồ câu thật sự là tình yêu lớn thứ hai của Prince, sau âm nhạc. Luôn quá bận rộn cho một cuộc sống ổn định nhưng ông đã bầu bạn với hai chú chim bồ câu tới cuối đời là Majesty - một chú chim đực màu trắng - và Divinity - chim cái màu đen. Từ sau When Doves Cry, bồ câu luôn xuất hiện trong cuộc sống của Prince. Cả Divinity và Majesty thậm chí được ghi nhận như là tác giả của ca khúc Arboretum thuộc album One Nite Alone (2002). Không phải nguồn cảm hứng mà thật sự là tác giả! Đáp lại tình cảm của Prince, những chú chim cũng yêu ông thật lòng. Khi huyền thoại qua đời năm 2016, chúng dường như cũng sốc như người hâm mộ. Chúng nhận ra nỗi đau này lập tức. Em gái Prince, Tyka Nelson, cho biết chúng đã rơi vào câm lặng sau khi ông qua đời. Majesty và Divinity thậm chí không cất tiếng khóc rền rĩ - điều có thể có ý nghĩa như sự lạc quan trong thảm kịch. Chỉ tới khi nhạc Prince bật lên, chúng mới gáy trở lại. Hai chú chim sau đó tiếp tục được nuôi ở nhà của Prince là Paisley Park. Sau gần 30 năm sinh sống, Majesty qua đời năm 2017 còn Divinity theo chân bạn vào năm 2021 trong bình yên. |
Thư Vĩ (Tổng hợp)
Tags