Như đã nói, công nghiệp văn hóa ở Việt Nam mới chỉ đạt mức "thường thường bậc trung" nếu so sánh với các trường hợp khác trên thế giới. Muốn "mỏ vàng" không bị lãng quên, chắc chắn chúng ta sẽ còn nhiều việc phải làm - và 1 trong số đó là việc học hỏi kinh nghiệm từ nhiều quốc gia.
Đáng chú ý, trong tham luận gửi đến Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, TS Nguyễn Phương Hòa, Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế, Bộ VH,TT&DL đưa ra kinh nghiệm về phát triển công nghiệp văn hóa ở một số nước trên thế giới để Việt Nam có thể học hỏi.
Công nghiệp văn hóa tạo ra "bước nhảy vọt" cho nền kinh tế
Cụ thể, theo người đứng đầu Cục Hợp tác quốc tế, nước Anh có mô hình đầu tư cho văn hóa được cho là thành công với sự kết hợp hài hòa giữa đầu tư công, doanh thu, nguồn tài chính tư nhân và hiến tặng. Chính nguồn lực đa dạng này đã tạo điều kiện để lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật có thể phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy tăng trưởng thông qua đầu tư và các biện pháp ưu đãi.
Ở đó, đầu tư của Nhà nước cho lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật được thực hiện thông qua Hội đồng Nghệ thuật Anh (ACE) với ngân sách hàng năm lên tới hơn 600 triệu bảng từ Chính phủ và Quỹ Xổ số quốc gia nhằm tạo ra những trải nghiệm văn hóa làm giàu có thêm đời sống của người dân. Ngoài ra, Chính phủ Anh có nhiều biện pháp ưu đãi để khuyến khích hiến tặng tư nhân, tài trợ của các doanh nghiệp và các nguồn tài trợ khác cho lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật. Chẳng hạn, từ nhiều năm, Anh áp dụng chính sách hoàn thuế VAT cho các bảo tàng và phòng trưng bày và miễn thuế cho nhà hát, dàn nhạc giao hưởng trong các giai đoạn cụ thể.
Tương tự, tại Mỹ, hệ thống ưu đãi thuế và truyền thống hiến tặng cá nhân đã trở thành một đặc trưng riêng. Cùng với kỹ năng "gây quỹ" chuyên nghiệp của các tổ chức văn hóa nghệ thuật, một nguồn lực lớn trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa đã được huy động. Theo đó, ước tính cứ 1 USD được Chính phủ liên bang giảm trừ thuế sẽ huy động được từ 0,8 đến 1,3 USD từ các nhà tài trợ.
Với chính sách miễn giảm thuế khi tài trợ cho nghệ thuật được áp dụng rộng rãi từ năm 1936, các doanh nghiệp - nhất là các doanh nghiệp nhỏ có doanh thu dưới 50 triệu USD - là nguồn tài trợ chính cho văn hóa nghệ thuật ở cấp độ địa phương, tại các bang, hạt, thành phố của Mỹ.
Với Hàn Quốc, chính sách phát triển các ngành công nghiệp văn hóa được triển khai đồng bộ cùng đầu tư của Chính phủ vào các ngành chiến lược khác như công nghệ thông tin và truyền thông, từ đó hướng nền công nghiệp này theo hướng "xuất khẩu" các sản phẩm văn hóa mang thương hiệu Hàn Quốc ra thế giới.
Thay đổi quan trọng trong cơ chế quản lý văn hóa của Hàn Quốc là xu hướng phi tập trung hóa, với việc chuyển từ "Chính phủ ra quyết định và quản lý" sang việc "hợp tác giữa Chính phủ và các khu vực tư nhân". Xu hướng này đảm bảo giúp chính sách văn hóa phản ánh được nhu cầu của mọi tầng lớp xã hội. Quá trình phân cấp, phân quyền trong quản lý văn hóa có thể làm cho khu vực văn hóa nghệ thuật tự chủ và năng động hơn, đồng thời cũng là tiền đề cho sự phát triển lành mạnh của khu vực này.
Lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật ở Hàn Quốc nhận được nhiều hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ. Cụ thể, ngân sách năm 2022 của Bộ VH,TT&DL Hàn Quốc được Chính phủ thông qua là 7 tỷ USD, tăng 280 triệu USD so với năm 2021. Ngân sách được phân bổ theo một số lĩnh vực chính gồm văn hóa nghệ thuật (2,4 tỷ USD), công nghiệp nội dung (1,1 tỷ USD), du lịch (1,4 tỷ USD)…
Lý tưởng nhất là hình thành một cơ quan chỉ đạo liên ngành để huy động tối đa các nguồn lực nhằm phát triển các ngành công nghiệp văn hóa sáng tạo.
Cần sự điều phối thống nhất
Theo bà Nguyễn Phương Hòa, từ khi Chính phủ phê duyệt "Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030" (ngày 8/9/2016), sau 5 năm triển khai, 12 ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam đã đóng góp doanh thu hơn 8 tỷ USD, tương đương 3,61% GDP. Con số đó cho thấy, phát triển công nghiệp văn hóa ở nước ta giàu tiềm năng nhưng cũng gặp nhiều thách thức.
Trong khi đó, các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo là một trong những lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới và được dự báo có đóng góp đáng kể cho GDP toàn cầu, lên tới 10% vào năm 2030. Trên khắp thế giới, nhiều quốc gia xác định văn hóa sáng tạo ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế hậu công nghiệp và là động lực cho sự phát triển bền vững.
Thực tế, so với các nước trên thế giới, trong đó có các nước trong khu vực, chúng ta vẫn còn chậm trễ hơn trong phát triển các ngành công nghiệp văn hoá. Trong bối cảnh đó, việc học hỏi kinh nghiệm của quốc tế là điều vô cùng cần thiết.
Cũng theo Cục trưởng Cục hợp tác quốc tế, trong bối cảnh hậu công nghiệp và sự phát triển vũ bão của công nghệ thông tin và cách mạng 4.0, các nước đều quan tâm đầu tư chuyển đổi số, đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế để tăng cường ảnh hưởng, mở rộng thị trường, nâng cao vị thế và hình ảnh quốc gia.
"Để xây dựng khuôn khổ pháp lý triển khai các hoạt động giao lưu hợp tác, Việt Nam đã tích cực đàm phán ký kết khoảng 70 Điều ước, Thỏa thuận quốc tế (cấp Bộ) trong giai đoạn từ 2015 đến nay" - bà Hòa cho hay - "Trong thời gian tới, bên cạnh việc đàm phán, ký kết các văn bản khung về hợp tác văn hóa, cần nghiên cứu, thúc đẩy việc đàm phán ký kết các hiệp định đồng sản xuất với các nước có nền công nghiệp điện ảnh phát triển".
Chuyên gia này cũng khẳng định: "Để tăng cường sức mạnh mềm, Việt Nam cần tiếp tục đầu tư tăng cường sự hiện diện tại các sự kiện văn hóa - nghệ thuật uy tín trong khu vực và quốc tế, chủ động đăng cai một số sự kiện quy mô quốc tế để vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc, và giới thiệu, ra mắt các sản phẩm văn hóa chất lượng cao của Việt Nam, từng bước xây dựng các sản phẩm thương hiệu quốc gia hướng tới xuất khẩu".
Bên cạnh đó, bà Hòa khuyến nghị: Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam cần chủ động tham gia ứng cử, đảm nhiệm các cương vị trong các tổ chức quốc tế, thiết chế đa phương về văn hóa như Ủy ban liên Chính phủ các công ước về văn hóa của UNESCO, Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới WIPO... nhằm đóng vai trò lớn hơn đối với các vấn đề khu vực và quốc tế, thể hiện vai trò dẫn dắt, tham gia hình thành, sửa đổi các luật lệ chung, các định hướng phát triển, khẳng định vai trò của các ngành công nghiệp văn hóa sáng tạo đối với việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu.
Thêm nữa, để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa thành công, Việt Nam cũng cần có sự gắn kết giữa chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo với các chiến lược khác có liên quan, trở thành một bộ phận trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, gắn kết và có sự tương hỗ với các chiến lược hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiến lược đào tạo nghề... Để làm được điều này, cần có sự điều phối thống nhất các sáng kiến và hành động giữa các bộ, ngành khác nhau trong Chính phủ vì mục tiêu chung. Thậm chí, lý tưởng nhất là hình thành một cơ quan chỉ đạo liên ngành để huy động tối đa các nguồn lực nhằm phát triển các ngành công nghiệp văn hóa sáng tạo.
"Mỏ vàng" công nghiệp văn hóa tại Mỹ
Năm 2020, thống kê của Cơ quan Phân tích Kinh tế Mỹ cho thấy hoạt động kinh tế văn hóa và nghệ thuật chiếm tỷ trọng 4,2% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của quốc gia này (tương đương 876,7 tỷ USD) và tạo ra 4,5 triệu việc làm. Trong đó, đóng góp vào GDP của văn hóa và nghệ thuật lớn hơn 5 lần so với nông nghiệp, nhiều hơn 60 tỷ USD so với ngành xây dựng, nhiều hơn 227 tỷ USD đối với ngành vận tải và kho bãi. Hàng hóa văn hóa - nghệ thuật tại quốc gia này cũng tạo ra thặng dư thương mại và được xuất khẩu ở nhiều lĩnh vực như điện ảnh, chương trình truyền hình, quảng cáo, phần mềm nghệ thuật, trò chơi điện tử.
(Còn nữa)
Tags