(Thethaovanhoa.vn) - Hình ảnh người dân tộc quấn xà-rông hay mặc váy trên những chuyến xe đò dọc ngang, xuôi ngược khắp Bắc - Trung - Nam, hoặc ngồi chồm hổm các chợ vỉa hè với giỏ xách đầy vải vóc hay thuốc nam dân tộc, đã trở nên quen thuộc trong mắt mọi người. Đó là người dân tộc Chăm với “những cuộc ra đi” của họ.
Tôi rất thích cái tít báo Người Chăm An Giang và những cuộc ra đi của Nguyễn Hoàng Sông Hậu trên Tiền phong, 6/2001: “Trong ký ức của dân tộc Chăm là những cuộc ra đi… Nay vẫn thế, mặc dù người Chăm đa số đã định cư, nhưng cái tính chất kiểu như digan ấy vẫn cứ chảy trong đời sống người Chăm”.
Ra đi, không phải chỉ Chăm An Giang không thôi, mà còn cả Chăm Ninh Thuận. Họ đã in dấu chân mình không chừa từ vùng miền nào trên đất nước hình chữ S này. Ở xa thẳm lịch sử dân tộc, người Chăm làm những cuộc ra đi, từ rất sớm. Sớm, và cho tận đến ngày hôm nay. Chăm là dân tộc phiêu lưu theo nghĩa mạnh nhất của từ này.
Đầu thế kỷ thứ 5, Gangaraja sau vài năm trị vì, nhường ngôi cho cháu, để sang Ấn Độ. Đây là vị vua duy nhất của Đông Nam Á thuộc Ấn giáo đã vượt đại dương sang bờ sông Hằng. Từ đó tạo tiền đề cho bao cuộc ra đi khác, với nhiều mục đích khác.
Vũ Ngọc Liễn cho rằng “Điệu la lăng vương ở Nhật không phải từ Trung Hoa truyền đến mà là nhạc của nước Lâm Ấp” (Tagalau 9). Riêng kiến trúc và điêu khắc, người Chăm đã biết thâu thái từ nền kiến trúc của các nước láng giềng: Thái Lan, Khmer, Java, Indonesia… để sáng tạo nên nền kiến trúc kỳ vĩ của mình với rất nhiều phong cách khác nhau. Không có những cuộc ra đi, thì sẽ không làm được bao công trình bất hủ kia.
Và, nếu không có những cuộc ra đi, thì người Chăm sẽ không làm nên nền kinh tế thị trường hàng đầu Đông Nam Á thời xưa ấy. Hình ảnh bà con Chăm ngồi chồm hổm chợ chiều hôm nay không gì khác hơn là phái sinh của cuộc thiên di buôn bán truyền đời từ ông bà họ. Những cuộc đi, xuyên đại dương, vượt lục địa để buôn bán, và buôn toàn mặt hàng “độc”.
“Cù lao Chàm với vị thế thuận lợi của mình đã vươn lên thành thương cảng số một của Vương quốc Champa… Trên quãng đường dài từ Kra Isthmus (Nam Thái Lan) đến Canton (Quảng Châu) chỉ có một trạm dừng chân duy nhất là Chiêm cảng - Cù lao Chàm, nơi có thể nghỉ ngơi, tích trữ lương thảo, nước ngọt và buôn bán, trao đổi hàng hóa... trước khi giong buồm thẳng sang Trung Quốc… những thuyền buôn từ Tây Á sang Trung Quốc và ngược lại, thường ghé qua Cù lao Chàm của Champa để lấy nước ngọt và trầm hương” (Lâm Thị Mỹ Dung, Cù lao Chàm, chiều dày lịch sử và văn hóa - vntimes. com.vn, 1/2012).
Giếng vuông Chăm xây bằng gạch, hiện vẫn còn tồn tại dọc duyên hải miền Trung. Giếng nằm sát bờ biển, người Chăm biết cách tìm nguồn nước không bao giờ cạn. Bên cạnh nước ngọt là trầm hương. Thứ thì hiếm thành quý, thứ thì vô cùng nhiều nhưng vẫn cứ… quý, mới lạ. Thử dõi theo bước chân G.Maspéro (Vương quốc Champa, Paris, 1928).
“… Vì người Champa có lợi trong việc buôn bán với Trung Quốc, năm 1438 ông lại phải gửi sứ bộ sang nhà Minh”. Sứ bộ ấy phải là nhà ngoại giao cỡ bự - ngoại trưởng phụ trách kinh tế, có thể nói thế. Ở lịch sử xa xưa ấy, người Chăm buôn bán tất tần tật những gì có thể buôn bán được. Bán những gì mình có, và mua những gì mình không có. Hơn thế - “tìm mọi cách để mua”, nếu đó là mặt hàng không thể không có. Sử gia này tiếp: “Vua Trung Quốc tặng ngựa cho vua Champa. Và khi người Champa học được cách dùng ngựa vào trận chiến, vua Champa tìm mọi cách để mua cho kỳ được ngựa của Tàu, mặc dù đó là mặt hàng cấm xuất khẩu”.
Ông còn cho biết, lúc đó Vương quốc Champa có chức quan “gọi là Seih Es-Suq, tức là “Tổng đại biểu của thị trường”, có Naqib giúp việc. Với “thủ lĩnh nội địa” đó, các phú thương do buôn bán mà giàu có, đã chiếm địa vị ưu thế: tên tuổi họ được khắc trên các bi ký”. Tổng đại biểu của thị trường thì có khác gì chức Bộ trưởng Kinh tế thời hiện đại đâu. Thường thì người ta khắc lên bi ký tên tuổi tiến sĩ hay các vị khoa bảng triều đình, ai lại khắc tên doanh nhân?! Vậy mà người Chăm đã làm, và làm từ rất sớm.
Sở hữu chiều dài bờ biển với thương cảng tấp nập tàu ngoại quốc ra vào, các vương triều Champa đã xây dựng cơ cấu kinh tế đất nước dựa trên thương mại biển thuộc hàng đầu trong khu vực. Thế nhưng không phải vì thế mà họ chừa món “thương mại đất liền”. Nhà nghiên cứu Tạ Chí Đại Trường cho biết: “Một tướng của Nguyễn Nộn là “phiên” Ma Lôi từng đi buôn bán xa, tận Ai Lao”. Ma Lôi thuộc sắc dân Chăm, lại là Chăm trong đoàn tù binh của nhà Lý! Tù binh mà đã thế, nếu đang là công dân tự do thì họ còn tung hoành dọc ngang thế nào nữa. Giai thoại còn cho rằng, địa danh “Ô Chợ Dừa” ở Hà Nội hôm nay có nguồn gốc từ Chăm. Nghệ nhân, thợ thuyền... Chăm ra Bắc, mong nguôi nỗi nhớ quê hương, đã mang dừa từ Quảng Nam, Bình Định ra Bắc trồng. Trồng và đem đi bán. Họ lập nên chợ - Ô Chợ Dừa - để bán dừa.
Nghĩa là, người Chăm đi đến đâu buôn bán ở đó. Xưa đã vậy, nay chẳng có chi khác. Chăm vẫn tiếp nhận truyền thống ấy, chưa bao giờ gọi là đứt mạch. Làng khuất hay phố xa từ Bắc chí Nam, dân Pabblap đều rành. Sau 1975, bà con vào Sài Gòn lập cả khu phố Chăm ở đường Hùng Vương. Sau đó, Đồng Nai, Trà Vinh, Đà Nẵng hay tận Bắc Giang… xuất hiện khu phố Chăm. Loại khu phố tạm bợ, như thể địa điểm tập kết, để bà con có điểm đi và chốn về.
Dân Cakleng - Ninh Thuận ngoài đội giỏ thổ cẩm vào tận Phan Rí, Ma Lâm bán, bà con còn quẩy gánh tìm lên đất Tây Nguyên đi Churu, xưa gọi là đi buôn Thượng. Đó là vào những năm 60 của thế kỷ trước, đường sá hiểm trở với phương tiện giao thông thô sơ, các chú các bác đã phải trèo đèo lội suối, vào các buôn xa xôi và lạ lẫm nhất, để bán. Không ít người đã “hy sinh” tính mạng, vậy mà cứ đi. Đất nước mở cửa, thổ cẩm Chăm nhanh chóng tràn ngập thị trường TP.HCM, Đà Lạt, Hà Nội... Dân An Giang còn hơn thế, không những họ có mặt khắp đất nước Việt Nam thôi, mà còn mở chuyến đi sang cả Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc buôn bán. Mà hành trang của những chuyến đi ấy có nhiều nhặn gì cho cam! Vốn nhỏ, đến đâu bà con linh hoạt đến đấy.
Câu hỏi đặt ra, tại sao cộng đồng Chăm hiện nay không có người giàu, tỷ phú hay triệu phú, từ buôn bán? Xưa người Chăm đã từng có tỷ phú chưa, ta không biết được. Dẫu sao, với chức quan Seih Es-Suq “Bộ trưởng Kinh tế” khi ấy, thì chắc chắn đã xuất hiện những người rất giàu. Còn hôm nay, tại sao không, dù người Chăm chưa bao giờ thiếu máu buôn bán. Không thiếu, nếu không muốn nói là thừa thãi. Thừa, đến nỗi trường ca triết lý nổi tiếng nhất trong kho tàng văn chương cổ điển, tác giả đã ban cho nó cái tên rất kỳ lạ: Thơ đi buôn Ariya Nau Ikak.
Ariya Nau Ikak Thơ đi buôn (Inrasara, Văn học Chăm khái luận, NXB Tri thức, 2011) xem đời người như một chuyến buôn, một cư ngụ tạm bợ. Trần gian là cõi tạm cho lữ khách dừng chân trong chốc lát rồi phải ra đi biền biệt. Đây không phải là quê tôi, quê hương tôi là nơi khác kia. Vậy tôi làm giàu mà làm gì kia chứ? Chuyến buôn khởi thủy không vốn nên đừng mong có lãi ở chung cuộc. Câu cuối cùng của thi phẩm:
Ta về cố quận tình ơi
Cuộc buôn đã mãn, nhà ai nấy về.
Văn chương bác học đã vậy, văn học dân gian cũng chẳng khác là bao. Bởi “Chết thì không ai mang của cải theo cả”, cho nên, người Chăm không đặt nặng việc làm giàu. Buôn, mà không muốn làm giàu, nghe nghịch lý làm sao. Nhưng đó lại là sự thật. Bởi với Chăm, buôn bán không gì khác là chuyến phiêu lưu, “những cuộc ra đi” dài để rồi khi, “cuộc buôn đã mãn, nhà ai nấy về”.
Inrasara
Thể thao & Văn hóa Cuối tuần
Tags