- Đã có 9 người chết liên quan đến virus Marburg: Các chuyên gia nói gì về dịch bệnh với tỷ lệ tử vong lên tới 88%?
- Đã có hơn 1.000 trẻ mắc virus hợp bào hô hấp: 5 dấu hiệu điển hình để nhận biết bệnh
- Bệnh viện Nhi trung ương tiếp nhận hơn 1.000 trẻ mắc virus RSV: Dấu hiệu từ những cơn ho nhưng biến chứng nguy hiểm, gây xẹp phổi, ngưng thở bất cứ lúc nào!
WHO đã lên tiếng cảnh báo về một đại dịch có thể bùng phát toàn cầu trong thời gian tới: dịch virus Marburg.
Dù đã được phát hiện và xuất hiện từ lâu nhưng Marburg (MVD) gần đây đang có dấu hiệu bùng phát trở lại. Ngày 23/3, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ghi nhận tính từ đầu năm 2023 đến nay đã có 17 ca mắc virus Marburg ở Guinea Xích đạo và Tanzania, trong đó 12 trường hợp đã tử vong. Bên cạnh đó số ca nghi mắc tử vong còn cao hơn nhiều.
Vào ngày 14/2, Tổ chức Y tế Thế giới đã triệu tập cuộc họp khẩn sau khi có ít nhất 9 người tại Guinea Xích đạo tử vong vì sốt xuất huyết virus Marburg. Công tác phát triển vaccine chống virus Marburg cũng đang được gấp rút nghiên cứu.
Có nhiều lý do khiến virus Marburg trở thành dịch bệnh mới nhất bị WHO cảnh báo cả thế giới cần đặc biệt cẩn trọng và đề phòng.
Virus Marburg lây lan như thế nào và ai dễ bị nhiễm bệnh?
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, Marburg thường được truyền sang người từ dơi ăn quả thông qua nhiều cơ chế. Dơi ăn quả bị nhiễm bệnh có thể lây lan vi rút Marburg sang các động vật khác (ví dụ: khỉ) trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhiễm virus Marburg có thể xảy ra ở người sau khi tiếp xúc lâu với môi trường có dơi ăn quả châu Phi sinh sống, chẳng hạn như mỏ hoặc hang động; tiếp xúc gần gũi với động vật bị nhiễm bệnh; tiếp xúc với chất dịch cơ thể của động vật bị nhiễm bệnh; thông qua các sản phẩm thực phẩm bị ô nhiễm.
Sự lây lan từ người sang người của virus Marburg là vấn đề đáng lo ngại nhất. Người bị nhiễm bệnh có thể lây lan virus sang người khác thông qua trao đổi máu hoặc chất dịch cơ thể (ví dụ: giọt bắn từ đường hô hấp, nước tiểu, mồ hôi, nước bọt, tinh dịch, phân, chất nôn và sữa mẹ) qua da hoặc màng nhầy. Marburg cũng có thể lây lan giữa người với người thông qua các đồ vật bị nhiễm chất dịch cơ thể, chẳng hạn như quần áo, giường ngủ và đồ dùng.
Đối tượng dễ bị nhiễm bệnh nhất chính là người có tiếp xúc gần trực tiếp với người mắc bệnh, chủ yếu là người thân hoặc nhân viên y tế.
Không có vaccine phòng bệnh
Hiện tại, không có vaccine để bảo vệ chống lại virus Marburg hoặc hạn chế sự lây lan từ những người mắc bệnh. Các chiến lược phòng ngừa chống lại sự lây lan của Marburg tập trung vào giảm thiểu rủi ro và truy tìm người tiếp xúc.
Các biện pháp truy vết tiếp xúc bao gồm xác định những cá nhân có thể đã tiếp xúc với người bị nhiễm virus và theo dõi dấu hiệu và triệu chứng của bệnh trong 21 ngày sau khi tiếp xúc.
Các dấu hiệu và triệu chứng của nhiễm virus Marburg thường xuất hiện từ 2 đến 21 ngày sau khi tiếp xúc với virus. Dơi ăn quả bị nhiễm virus Marburg không có dấu hiệu bệnh tật rõ ràng. Tuy nhiên, người và linh trưởng không phải người bị nhiễm virus Marburg có thể phát triển các triệu chứng nghiêm trọng.
Bệnh tiến triển khôn lường và tỷ lệ tử vong 88%
Triệu chứng đặc trưng của bệnh là sốt, ớn lạnh, nhức đầu, đau họng, suy nhược và đau cơ, tiêu chảy có máu hoặc không có máu, đau bụng, buồn nôn và nôn, phát ban. Nhiều người có thể phát triển các dấu hiệu và triệu chứng xuất huyết nghiêm trọng từ 5 đến 7 ngày sau khi phát bệnh, chẳng hạn như bầm tím và chảy máu từ mắt, tai , mũi, miệng hoặc trực tràng.
Theo thời gian, các dấu hiệu và triệu chứng có thể ngày càng nghiêm trọng và có thể bao gồm đau ngực, sụt cân nghiêm trọng, lú lẫn, co giật, sốt cao kéo dài, viêm một hoặc cả hai tinh hoàn (ở những trẻ được chỉ định là nam giới khi sinh), sốc và suy đa cơ quan. Trong những trường hợp tử vong, người bệnh có thể tử vong 8 đến 9 ngày sau khi xuất hiện các triệu chứng, điển hình là do mất máu nghiêm trọng. Bệnh có tỷ lệ tử vong cao, đã được WHO ghi nhận là lên đến 88% trong các đợt bùng phát trước.
Những người sống sót sau nhiễm Marburg thường phục hồi chậm vì virus thường tồn tại trong cơ thể trong vài tuần. Các cá nhân có thể gặp các dấu hiệu và triệu chứng lâu dài, chẳng hạn như rụng tóc, viêm gan, suy nhược, mệt mỏi, đau đầu, viêm mắt và tinh hoàn.
Nhiễm virus Marburg thường được chẩn đoán bởi chuyên gia y tế sau khi xem xét kỹ lưỡng các hệ thống, tiền sử bệnh và tiến hành khám sức khỏe. Phát hiện và chẩn đoán sớm MVD có thể là một thách thức vì các dấu hiệu và triệu chứng ban đầu của MVD không đặc hiệu và khó phân biệt với các bệnh truyền nhiễm khác, chẳng hạn như sốt rét, thương hàn, shigella, viêm màng não và các bệnh sốt xuất huyết do virus khác, ví dụ như sốt Lassa hoặc Ebola. Do đó, sự chậm trễ trong chẩn đoán có thể cản trở cơ hội sống sót và tạo ra những thách thức trong việc kiểm soát sự lây truyền và bùng phát. Virus thường bị nghi ngờ ở những người đã tiếp xúc với các khu vực địa lý phổ biến virus Marburg, đặc biệt là ở những người đã biết phơi nhiễm.
Trong giai đoạn đầu của MVD, việc phát hiện virus có thể được thực hiện thông qua bệnh phẩm ngoáy họng và mũi, mẫu dịch não tủy, mẫu nước tiểu hoặc mẫu máu. Các mẫu được lấy từ những người bị MVD là một mối nguy sinh học và phải được xử lý cũng như thử nghiệm trong các điều kiện ngăn chặn sinh học tối đa.
Chưa có cách điều trị
Hiện tại không có bất kỳ phương pháp điều trị bằng thuốc nào được phê duyệt đối với nhiễm virus Marburg. Điều trị Marburg chỉ giới hạn trong chăm sóc hỗ trợ, thường là sau khi nhập viện, bao gồm để người bệnh nghỉ ngơi, bù nước, thở oxy và điều trị các triệu chứng cụ thể khi khởi phát.
Thuốc hỗ trợ để giảm đau và hạ sốt, kiểm soát buồn nôn và nôn cũng có thể được sử dụng. Dịch truyền tĩnh mạch và/hoặc đường uống có thể được cung cấp để thay thế lượng dịch bị mất, ổn định chất điện giải và duy trì huyết áp . Truyền máu cũng có thể được cung cấp để thay thế máu và các yếu tố đông máu bị mất. Nếu các bệnh nhiễm trùng phức tạp khác phát triển, các liệu pháp kháng virus và/hoặc kháng sinh thích hợp có thể được chỉ định.
Nguồn: Osmosis
Tags