Ngày 28/6, Sở Văn hóa và Thể thao Thừa Thiên – Huế thông tin, sau hơn 2 tháng tiến hành thăm dò và khai quật tại di tích Tháp đôi Liễu Cốc, đoàn chuyên gia đến từ Bảo tàng Lịch sử quốc gia phối hợp Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Thừa Thiên - Huế đã có nhiều phát hiện quan trọng về quy mô, cấu trúc mặt bằng tổng thể di tích Tháp đôi Liễu Cốc; đồng thời cũng đã đưa lên khỏi lòng đất hàng ngàn di vật tiêu biểu, góp phần quan trọng trong quá trình nghiên cứu, nhận thức về công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng của người Chăm.
Theo ông Nguyễn Ngọc Chất, Phó Phòng Nghiên cứu sưu tầm, Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Tháp đôi Liễu Cốc là di tích đền tháp Champa hiếm hoi còn xuất lộ trên mặt đất tính từ Bắc Mỹ Sơn trở ra. Qua kết quả khai quật và quan sát bề mặt hiện trạng, bước đầu đoàn khảo cổ chỉ xác định được hai đền tháp chính trong di tích, không thấy dấu hiệu của đền tháp thứ 3.
Nếu đúng chỉ 2 tháp thờ chính thì di tích Tháp đôi Liễu Cốc là di tích đặc biệt, duy nhất thuộc hệ thống di tích đền tháp Champa có 2 tháp thờ chính. Thông thường, các di tích đền tháp Champa phân bố trải dọc miền Trung Việt Nam, trong quá trình nghiên cứu, mới chỉ ghi nhận về hệ thống di tích có 1 tháp thờ chính hoặc 3 tháp thờ chính, không có trường hợp nào có 2 tháp thờ chính như ở Liễu Cốc.
Quá trình khai quật, đoàn khảo cổ đã cho mở rộng và nối thông 3 hố khai quật (theo kế hoạch ban đầu) tạo thành 1 hố lớn (9,4 x 10,3m), bao quanh nền móng kiến trúc tháp Bắc. Qua đó xác định rõ mặt bằng, quy mô và kết cấu của kiến trúc đền tháp Bắc. Đồng thời, ở các hố thăm dò, đoàn cũng xác định được vị trí của tháp Cổng, tháp Hỏa, hệ thống tường bao phía Đông và đường đi nối từ tháp Nam sang tháp Bắc. Qua diễn biến địa tầng, đoàn chuyên gia nhận thấy, Tháp đôi Liễu Cốc được xây dựng trên một gò đất phù sa của sông Bồ, cao hơn mực nước biển từ 3,7 - 4m. Trước khi tiến hành xây dựng tháp, người xưa đã đổ đắp thêm một lượng đất phù sa để tạo mặt bằng, sau đó tiến hành đầm chắc bằng lớp đất laterite và bột gạch, dày từ 5 - 12cm để gia cố đáy móng tháp.
Theo các chuyên gia, sau khi hợp nhất 3 hố khai quật, toàn bộ quy mô, mặt bằng, kết cấu nền móng, đế tháp và phần còn lại của thân tháp Bắc đều được làm xuất lộ. Theo đó, tháp có bố cục mặt bằng hình vuông, cửa chính hướng Đông lệch Bắc 14 độ, ba phía Bắc, Tây, Nam đều có cửa giả. Tiền sảnh ở phía Đông kéo dài, nhô hẳn về phía trước. Tháp có 4 phần, gồm: móng, đế tháp, thân tháp và mái tháp. Riêng mái tháp đã bị sụp đổ, không thể nhận diện; thân tháp cũng bị sụp đổ mất quá nửa, nên việc nhận diện cũng hạn chế. Từ móng đến thân tháp đều được xây xếp thuần nhất bằng gạch, gạch xếp so le ngang dọc, trong đó phần phủ bì bên ngoài và mặt trong của móng, tường tháp đều sử dụng gạch lành, riêng phần lõi tường thì được sử dụng đa phần là gạch vỡ, có lẫn đất sét vàng, thuần...
Cùng với việc làm xuất lộ quy mô kết cấu nền móng kiến trúc tháp Bắc và các dấu tích kiến trúc liên quan khác, trong quá trình khai quật đoàn khảo sát cũng thu được một khối lượng di vật, gồm 4.807 tiêu bản; trong đó, tập trung chủ yếu là các loại vật liệu kiến trúc, trang trí kiến trúc, các mảnh bia và phù điêu đá, đồ gốm men, đồ sành, đồ đất nung và tiền kim loại. Đáng chú ý, có một đầu tượng dạng phù điêu, có niên đại thế kỷ XI – XII; Bia được làm từ đá sa thạch màu xám vàng, bề mặt mài nhẵn; 3 chiếc bình vôi của Champa, thế kỷ IX - XI còn tương đối nguyên vẹn… Đây là hiện vật quý, sau khi được nghiên cứu, chỉnh lý, giám định và lập hồ sơ khoa học sẽ cung cấp nhiều thông tin quan trọng, giúp ích cho công tác nghiên cứu và trưng bày phát huy giá trị.
Theo các chuyên gia trong đoàn khảo cổ, kết quả khai quật cũng cho thấy, để xây dựng tháp Liễu Cốc, người xưa đã xây một khối tường vuông vức, chính điện để trống, đặt ngẫu tượng thờ, ngoài xây giật cấp phân vùng cửa giả, cửa chính, tiền đường, phía trên mái vòm thu dần lên cao. Khi đã tạo thành khối tháp với tường dày (1,6 - 1,65m) xong xuôi mới tiến hành đục, cắt, mài tạo thành các cột góc, cột trụ, ô hộc chìm hay những đường xoi rãnh trang trí bên ngoài. Từ kết quả sơ bộ tại đợt thăm dò, khai quật khảo cổ cùng với các tư liệu nghiên cứu, có thể nhận định niên đại xây dựng tháp Bắc Liễu Cốc vào giai đoạn thế kỷ IX, tương ứng với niên đại của tháp Mỹ Sơn C2, nằm trong giai đoạn đầu của phong cách nghệ thuật Đồng Dương.
Tháp đôi Liễu Cốc là di tích quốc gia có giá trị quan trọng đối với lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, lịch sử Thừa Thiên - Huế nói riêng. Các chuyên gia kiến nghị, Thừa Thiên – Huế tiếp tục đầu tư mở rộng diện tích nghiên cứu, khai quật khảo cổ để xác định rõ quy mô, kết cấu nguyên gốc, tính chất, đặc điểm, niên đại của di tích Tháp đôi Liễu Cốc, làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng kế hoạch bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích. Đồng thời, tỉnh nghiên cứu gia cố, gia cường hệ thống tường tháp, tránh xuống cấp, đổ vỡ; làm sạch bề mặt gạch, chống rêu mốc và cây cối mọc phủ lên kiến trúc; nghiên cứu, thiết kế nhà mái che cho hai công trình kiến trúc tháp chính; có giải pháp bảo tồn lại miếu Dương Phi cho phù hợp với tổng thể, làm điểm nhấn cho không gian của di tích.
Tháp đôi Liễu Cốc (nằm ở tổ dân phố Xuân Tháp, phường Hương Xuân, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế) là một công trình kiến trúc tôn giáo đặc trưng của người Chăm. Đây là di tích kiến trúc nghệ thuật có nhiều giá trị, đánh dấu một giai đoạn phát triển trong lịch sử, văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung, dân tộc Chăm nói riêng.
Năm 1926, di tích Tháp đôi Liễu Cốc được Viện Viễn Đông Bác Cổ nghiên cứu và xếp hạng là cổ tích trong toàn cõi Việt Nam và Đông Dương thời bấy giờ; năm 1994, di tích được Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) ký quyết định xếp hạng Di tích kiến trúc - nghệ thuật cấp Quốc gia.
Tags