Trong ngày thi đấu cuối cùng của môn rowing, Đoàn Thể thao Việt Nam tham dự 3 nội dung chung kết, trong đó niềm hy vọng huy chương dồn vào nội dung thuyền 8 nữ hạng nặng 1 mái chèo.
Các VĐV Đinh Thị Hảo, Dư Thị Bông, Hà Thị Vui, Hồ Thị Lý, Lê Thị Hiền, Phạm Thị Huệ, Phạm Thị Ngọc Anh, Trần Thị Kiệt bước vào thi đấu chung kết lúc 11h30 (giờ Trung Quốc, tức 10h30 Việt Nam).
Trước sự vượt trội của đội thuyền 8 nữ hạng nặng một mái chèo của chủ nhà Trung Quốc, các tay chèo Việt Nam không thể cạnh tranh vị trí dẫn đầu cững như hạng hai cùng tấm HCB của đoàn Nhật Bản.
Chung cuộc ở nội dung này, đội Trung Quốc HCV với thành tích 6 phút 33 giây 61. Nhật Bản HCB (6 phút 44 giây 15), Việt Nam HCĐ (6 phút 48 giây 21) xếp trên Thái Lan và Ấn Độ.
Nội dung thuyền bốn nam hạng nặng hai mái chèo, các VĐV Nhữ Đình Nam, Bùi Văn Hoàn, Nguyễn Văn Hà, Nguyễn Văn Hiếu tranh tài cùng các đội đua Uzbekistan, Indonesia, Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan.
Mặc dù đã thi đấu nỗ lực nhưng các tay chèo nam Việt Nam chỉ về đích ở vị trí thứ 5 với thành tích 6 phút 22 giây 22, chỉ xếp trên đội tuyển Thái Lan. HCV nội dung này vẫn là đội đua của chủ nhà Trung Quốc (6 phút 02 giây 65).
Nội dung chung kết thuyền 4 nữ hạng nặng 2 mái chèo, đội Việt Nam gồm Bùi Thị Thu Hiền, Lường Thị Thảo, Nguyễn Thị Giang, Phạm Thị Thảo cạnh tranh với chủ nhà Trung Quốc, Iran, Kazakhstan, Indonesia.
Nỗ lực bám đuổi của các cô gái đua thuyền Việt Nam giúp Đoàn Thể thao Việt Nam có được tấm HCĐ, xếp sau chủ nhà Trung Quốc (HCV, 6 phút 42 giây 84 ) và Iran (6 phút 51 giây 82). Thành tích của các tay chèo Việt Nam là 6 phút 54 giây 84.
Đội đua của Việt Nam là sự kế thừa giữa thế hệ VĐV trẻ (3 VĐV) và thế hệ VĐV kỳ cựu (1 VĐV). Trong đó trẻ nhất là Bùi Thị Thu Hiền sinh năm 2002 và lớn tuổi nhất là Phạm Thảo, sinh năm 1989.
Cũng ở môn rowing, sáng 25/9, Hồ Thị Duy về nhì ở chung kết nhóm B nội dung thuyền đơn nữ hạng nặng môn rowing với thành tích 8 phút 7 giây 48 và đứng thứ 8 chung cuộc.
Ở nội dung này, 3 tấm huy chương thuộc về các VĐV thi đấu ở nhóm A gồm: Anna Prakaten (Uzbekistan 7 phút 39 giây 05), Liu Ruiqi (Trung Quốc 7 phút 49 giây 98) và Shiho Yonekawa (Nhật Bản 7 phút 51 giây 88).
Tags