(Thethaovanhoa.vn) - “Mùa Hè về cuộc sống thật yên ả/ Những chú cá nhảy vui, và cây bông vải mọc cao/ Này đây! Cha con thì giàu có và mẹ con rất duyên dáng…”. Những lời cadu dương và chậm rãi, như buổi chiều Hè êm đềm, yên ả, Summertimecủa nhà soạn nhạc George Gershwin thuộc danh sách những ca khúc bất hủ nhất của thế kỷ 20. Một khúc ca về niềm hy vọng tươi sáng ngân lên trong những giờ phút đen tối và hỗn loạn nhất.
Summertime là bài hát nổi bật nhất trong vở opera Porgy And Bess của George Gershwin. Nó là một ca khúc rất đặc biệt, đã phá vỡ ranh giới của các thể loại âm nhạc: từ jazz, rock, pop đến nhạc cổ điển. Trong quá khứ, nó từng được các huyền thoại âm nhạc cover như: Louis Armstrong, Paul McCartney, Miles Davis, Billy Holiday…
Sự phối hợp đầy trắc trở
Summertime được nhà soạn nhạc George Gershwin viết cho vở operaPorgy And Bess, phần lời thực hiện bởi nhà văn Dubose Heyward. Xuất hiện 3 lần trong suốt vở opera, Summertime là khúc hát ru ngọt ngào trong trẻo, vẽ nên một thế giới hạnh phúc trong tâm thức đứa trẻ ngây thơ, ở đó cuộc sống thật dễ dàng, mùa màng bội thu, không có hiểm nguy đe dọa. Đặt trong bối cảnh khu ổ chuột bất ổn và tối tăm của người da đen trong vở opera Porgy And Bess, buồn thay đó chỉ là khao khát vô thực của người mẹ.
Summertime được thu âm lần đầu tiên bởi Abbie Mitchell vào ngày 19/7/1935, ba tháng trước khi Porgy And Bessđược chính thức công diễn. Cùng với các tuyệt tác khác như I Got Plenty O’ Nuttin’, It Ain’t Necessarily SovàBess, You Is My Woman Now, Summertime được Gershwin cùng Heyward hoàn thiện trong vòng 1 năm, trên hòn đảo gần Charleston, Nam Carolina, với mong muốn tiếp thu sâu sắc khung cảnh miền Nam nước Mỹ cùng lối nói đặc trưng của người Mỹ gốc Phi. Phần lời cũng được Heyward lấy cảm hứng từ bài ru dân gian miền Nam nước Mỹ All My Trials. Cùng với sự ảnh hưởng từ khúc hát ru của người Do Thái, tất cảgiao thoa trong từng lời ca của Summertime,nó đi vào lịch sử như bài hát ru ngọt ngào và trong sáng mà các bậc cha mẹ Mỹ vẫn ngân nga hằng đêm với con mình.
Pha trộn đặc trưng của jazz và phong cách dân gian của người Mỹ gốc Phi, cùng việc sử dụng ca từ đơn giản mang tính nhắc lại, Gershwin đã xuất sắc với ý định biến nhạc khúc này nghe có vẻ như mộtbản đồng dao, qua cáchsử dụng âm giai ngũ cung, kết hợp tiết tấu chậm rãi có phần “lề mề” gợi nhắc đến dòng nhạc blues, thể hiện qua giọng nữ cao trữ tình da diết. Sự hài hòa củadòng nhạc blues, jazz, cổ điển và các yếu tố khác của âm nhạc Mỹ-Phi làm nên một bản đồng dao chậm rãi, du dương xuất hiện lần đầu tiên trong sáng tác của Gershwin và dường như chưa thể được tái hiện cho đến tận bây giờ.
Chính sự đột phá đầy táo bạo ấy, không may thay lại khiến Summertime cùng Porgy And Bess nhận phản ứng tiêu cực vào thời điểm mới ra mắt. Fan của nhạc jazz thất vọng vì phần nhạc nặng nề, còn người nghe opera thì không hài lòng với sự thiếu chỉn chu. Porgy And Bess đã không được coi là bản opera chính thống mà chỉ xếp nó vào thể loại kịch nhạc (comédie musicale) và việc kết hợp blues và jazz cùng âm hưởng dân ca là một sự vụng về và mất chất. Trên thực tế, vở opera Porgy And Bess không được tái hiện trọn vẹn cho đến năm 1976.
Nhà soạn nhạc George Gershwin đã qua đời chỉ 2 năm sau khi vở opera được công diễn, không hay biết rằng Porgy And Bess dù cho công diễn vào năm 1935 phải đóng cửa 4 tháng sau đó, đã được công nhận là một trong những vở nhạc kịch quan trọng nhất của Mỹ ở thế kỷ 20. Và Summertime, dù vắng bóng người cha đẻ của nó, vẫn tiếp tục lan tỏa mạnh mẽ, trở thành một trong những ca khúc được cover nhiều nhất trong lịch sử âm nhạc, với hơn 33.000 phiên bản của các nhóm và nghệ sĩ solo, rất nhiều trong số đó đã càn quét các bảng xếp hạng trong suốt thế kỷ qua.
Tiếp sức cho phong trào phản chiến tại Việt Nam
Người ta đã dành những mỹ từ có cánh nhất cho bản coverSummertimetheo phong cách jazz của 2 huyền thoại Louis Armstrong và Ella Fitzgerald vào năm 1957.
Chính vì vậy, bài viết này muốn dành câu từ cho một phiên bản khác, táo bạo và chắc chắn kén người nghe hơn, đặc biệt là gắn với một giai đoạn lịch sử biến động của nước Mỹ, của Việt Nam. Đó là bản cover theo phong cách rock của Janis Joplin phối hợp với ban nhạc Big Brother.
Bản cover Summertime nằm trong album Summertime, ra mắt năm 1968, sản phẩm cuối cùng mà Joplin kết hợp với ban nhạc Big Brother trước khi bước ra con đường solo, ghi dấu tên mình như một trong số danh ca nhạc rock điển hình cuối thế kỷ 20. Album Cheap Thrills đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng album Billboard 200 tám tuần sau khi phát hành, bán được hơn 1 triệu bản chỉ trong tháng đầu phát hành.
Ý tưởng phối khí lại bài hát xuất phát từ Sam Andrew, thành viên của ban nhạc Big Brother. Phần nhạc mạnh mẽ, phức tạp, cơ cấu dàn nhạc hiện đại nhưng lại vẫn phiêu diêu chất jazz đầy mộc mạc vừa có một chút blues với phần ngẫu hứng của guitar điện.
Giọng hát của Joplin có thể thô ráp, khó khăn khi chạm tới những quãng cao. Nhưng cá tính mạnh mẽ, hỗn loạn và không bị ngăn cấm của cô đã mang lại một phong cách hát căng đầy nội lực của cảm xúc.
Niềm tin và hy vọng căng tràn trong từng lời ca mà Janis Joplin ngân lên mạnh mẽ “You’re gonna rise up singing”đã tiếp thêm sức mạnh cho các phong trào biểu tình chống chiến tranh, đòi hòa bình tại Việt Nam trên khắp các thành phố lớn như New York, Chicago và hàng loạt thủ đô trên khắp thế giới trong những năm cuối thập niên 1960. Họ hát theo Joplin, họ dùng lời bài hát trên các biểu ngữ cùng với hình ảnh hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn. Thậm chí, trong những buổi biểu diễn có Janis Joplin, đã có quy định cấm riêng dành cho đối tượng biểu tình chống chiến tranh tại Việt Nam.
Khúc hát chậm rãi, du dương, tươi sáng, Summertimecủa nhà soạn nhạc vĩ đại George Gershwin sẽ tiếp tục sống mãi như một trong những nhạc khúc bất hủ nhất thế kỷ 20. Dìu dặt đồng hành cùng giấc ngủ yên bình của những đứa trẻ, Summertime mãi ngân lên niềm hy vọng, niềm tin và lạc quan vào tương lai tươi sáng và hạnh phúc cho bất kỳ ai.
Cùng nghe lại ca khúc "Summertime" do ca sĩ Janis Joplin thể hiện:
Ca khúc được cover nhiều nhất lịch sử Với hơn 33.000 phiên bản, Summertime là một trong những ca khúc được cover nhiều nhất trong lịch sử âm nhạc. Phiên bản thu âm đầu tiên được tạo nên bởi giọng ca du dương của Abbie Mitchelle và tiếng piano của chính George Gershwin. Vào năm 1958, phiên bản theo phong cách jazz của Ella Fitzgerald và Louis Amstrong đã đi vào lịch sử như một điển hình của nhạc jazz trong suốt thếkỷ20. Album Porgy and Bess gồm các bản thu những ca khúc trong vở opera của 2 huyền thoại này đã được vinh danh “Giải thưởng Đại lộ danh vọng” của Grammy. |
Hà My
Thể thao & Văn hóa
Tags