(Thethaovanhoa.vn) - Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây là lễ hội mừng năm mới theo lịch cổ truyền của dân tộc Khmer. “Chôl” nghĩa là “Vào” và “Chnăm Thmay” là “Năm Mới”.
Theo quan niệm của đồng bào, đây là thời kỳ tiếp giáp giữa hai mùa mưa nắng với cây cỏ tốt tươi… nên được đồng bào coi như sự khởi đầu của một năm thuận lợi. Tết Chôl Chnăm Thmây thường diễn ra vào khoảng giữa tháng tư dương lịch hằng năm.
* Nét văn hóa đặc sắc, mùa sum họp của đồng bào Khmer
Đối với người Khmer, ngoài ý nghĩa đón mừng năm mới, Tết Chôl Chnăm Thmây còn có ý nghĩa chấm dứt thời kỳ nắng hạn, bước sang thời kỳ có nước trời dồi dào để chuẩn bị cho vụ làm mùa mới.
Do mang ý nghĩa chào đón mùa mưa và mùa màng mới và là lễ hội lớn nhất trong năm, nên trước đây Tết Chôl Chnăm Thmây kéo dài từ 10-15 ngày. Những thập niên gần đây, trong xu thế đơn giản hóa lễ hội nói chung, Tết Chôl Chnăm Thmây chỉ gói gọn trong 3 ngày (chưa kể công việc chuẩn bị trong nhiều ngày trước đó).
Đối với người Khmer, chùa là nơi tôn nghiêm và cũng chính là ngôi nhà chung của cả cộng đồng. Vì vậy tất cả các lễ hội đều tập trung tại chùa, đặc biệt là lễ đón Tết Chôl Chnăm Thmây.
Trong ngày Tết đầu tiên - Chôl sangkran Thmây, người Khmer sẽ chọn giờ tốt nhất trong ngày, tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo đẹp, trang trọng và lịch sự, mang theo lễ vật nhang đèn vào chùa làm lễ rước Đại lịch “Maha Sangkran”, đồng thời diễu hành 3 vòng chung quanh chính điện để đón chào Têvêđa. Tối đến sẽ tổ chức các trò chơi dân gian cùng các vũ điệu như hát, múa dukê, robăm, ramvông...
Ngày Tết thứ hai - Wonbơf (năm nhuận tổ chức 2 ngày), mọi người bày tỏ lòng thành tâm tín ngưỡng bằng cách mang đồ ăn thức uống đến cho các sư sãi. Đáp lại, các nhà sư sẽ làm lễ tạ ơn những người đã làm ra hạt gạo, đã trồng trọt, chăn nuôi, tạo cho cuộc sống ấm no, đầy đủ. Buổi chiều theo sự hướng dẫn của vị Achar, mọi người làm lễ “Đắp núi cát” (Puôn phnôm khsach) ngay tại khuôn viên chùa để mong gặp được điều lành. Tập tục này gắn với thuật cầu mưa của người xưa.
Ngày Tết thứ ba - Lơm săk, còn gọi là ngày Lễ tắm Phật. Các nhà sư dùng những cành hoa, vẩy những giọt nước tinh khiết có ướp hương hoa thơm ngát lên tượng Phật. Trong làn khói hương, người Khmer thành tâm khấn nguyện cầu mong Trời Phật gia hộ cho dân làng được dồi dào sức khỏe, ruộng rẫy tốt tươi và được mùa.
Đến trưa mọi người về nhà làm lễ tắm tượng Phật thờ trong từng gia đình, rồi chúc mừng ông bà, cha mẹ và dâng bánh để tạ ơn. Cũng có khi họ tổ chức lễ tắm ông bà, cha mẹ, tượng trưng cho sự báo hiếu.
Cũng giống như phong tục của người Kinh, ba ngày Tết Chôl Chnăm Thmây cũng là thời gian những người con Khmer từ nơi làm việc, học tập lại trở về với gia đình, quê hương, để mỗi gia đình lại sum họp, đầm ấm đón mừng năm mới bên nhau, thăm họ hàng, gia tộc, chúc nhau sức khỏe, cuộc sống yên vui, phát đạt...
- Phong tục - Lễ hội độc đáo của đồng bào Khmer tỉnh Sóc Trăng
- Đồng bào Khmer tại Trà Vinh vui đón Lễ hội Óc Om Bóc
Trong ba ngày Tết Chôl Chnăm Thmây, ngoài các nghi thức Phật giáo, đồng bào Khmer cũng tổ chức rất nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật và các trò chơi dân gian, như: thả diều, đánh quay lửa hay nghe các cụ già kể chuyện thần thoại, cổ tích cho con cháu; thanh niên trai, gái tham gia các cuộc hát đối đáp aday, hát dukê, diễn roban, múa ramvông, romxaravan, múa trống xàdăm...
* Đời sống của đồng bào Khmer không ngừng được nâng cao
Đồng bào dân tộc Khmer sống tập trung tại 9 tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long, gồm: Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Vĩnh Long, Hậu Giang và Cần Thơ. Một bộ phận đồng bào Khmer sống ở TP Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Đông Nam Bộ với tổng dân số khoảng 1,3 triệu người. Đồng bào dân tộc Khmer có truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo trong lao động, có ý thức nâng cao dân trí, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, có nền văn hóa phong phú và đa dạng.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, trong đó có vùng đồng bào dân tộc Khmer. Cụ thể, đã ban hành và thực hiện đồng bộ nhiều chủ trương, chính sách như Chỉ thị số 19-CT/TW (ngày 10/1/2018) của Ban Bí thư về tăng cường công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tình hình mới; Kết luận số 28-KL/TW của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng ĐBSCL đến năm 2020.
Trước những khó khăn, thách thức do biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân, Chính phủ đã ban hành và triển khai Nghị quyết số 120/NQ-CP (ngày 17/11/2017) về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu...
Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện các chương trình, đề án lớn, như: Chương trình 135 thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi...
Đồng thời, ưu tiên bố trí nguồn lực để thực hiện hỗ trợ về giáo dục, y tế, phát triển hạ tầng, kinh tế xã hội cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, chiếm 71,4% tổng chi cho các nhiệm vụ này của cả nước, chiếm 80% tổng chi giảm nghèo của vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Nhờ đó, kinh tế-xã hội và đời sống của đồng bào dân tộc Khmer đã được nâng lên một bước đáng kể. Bộ mặt nông thôn vùng đồng bào dân tộc Khmer không ngừng đổi mới và phát triển. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, khá bền vững, số hộ nghèo giảm từ 3-5%/năm; trên 99% hộ có phương tiện nghe nhìn, 97% hộ được sử dụng điện lưới, 80% hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh. Công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân được đẩy mạnh.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa được chú trọng; nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật được tổ chức, không chỉ có sự tham gia đông đảo người dân (như Lễ hội Ok Om Bok, đua ghe Ngo, Lễ hội đua bò) mà còn thu hút được nhiều du khách.
Giáo dục, đào tạo vùng dân tộc không ngừng được đổi mới, trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên. Các tỉnh, thành phố có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống đều có trường dân tộc nội trú.
Cùng với đó, việc dạy và học tiếng Khmer cũng được thực hiện tốt. Chính sách về đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc cũng được các cấp, ngành, địa phương quan tâm, tạo điều kiện, tạo việc làm ở trong và ngoài nước...
Những năm qua, trên 655.000 lao động trong vùng đã được đào tạo nghề, trong đó có khoảng 140.000 lao động là người dân tộc thiểu số; hỗ trợ xuất khẩu trên 2.200 lao động, trong đó trên 300 lao động là dân tộc thiểu số.
Nhìn một cách tổng quát, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa bao giờ được khởi sắc như ngày nay.
Nhân dịp Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây năm 2022 của đồng bào Khmer, thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã gửi lời thăm hỏi ân cần, lời chúc mừng năm mới tốt đẹp nhất tới đồng bào, đồng chí và các vị chư tăng dân tộc Khmer.
Bức thư có đoạn viết: “Tôi mong muốn và tin tưởng rằng đồng bào, đồng chí và các vị chư tăng dân tộc Khmer sẽ tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, tinh thần đoàn kết, tự lực, tự cường, ý chí vươn lên từ bàn tay, khối óc, trên nền tảng văn hóa, bản sắc và truyền thống yêu nước để cùng các cấp, các ngành quyết tâm vượt mọi khó khăn, thách thức, không lơ là, chủ quan với dịch bệnh, nỗ lực thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội”.
Phương Phương (tổng hợp)/TTXVN
Tags