Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn, ở miền núi, tỷ lệ tử vong mẹ và trẻ em vẫn cao gấp 3-4 lần so với khu vực đồng bằng. Đặc biệt, ở một số đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ lệ này có thể cao gấp 7 lần so với người Kinh.
Ngày 10/3, tại Hà Nội, Bộ Y tế phối hợp với Ủy ban dân tộc và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) tổ chức Hội nghị vận động chính sách hỗ trợ đội ngũ cô đỡ thôn, bản.
Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn, những năm qua, được sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, sự hỗ trợ của các bộ, ngành, của cấp ủy, chính quyền các cấp cũng như của các tổ chức quốc tế và sự nỗ lực của Ngành Y tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ về chăm sóc sức khoẻ mẹ, trẻ em. Tỉ số tử vong mẹ tại Việt Nam đã giảm mạnh.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, Việt Nam vẫn đang gặp những thách thức trong việc giảm sự chênh lệch đáng kể về tình trạng sức khỏe, tỷ lệ tử vong mẹ, tử vong trẻ em giữa các vùng miền, các nhóm dân tộc. Việc chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, vùng sâu, vùng xa gặp rất nhiều khó khăn.
Ở miền núi, tỷ lệ tử vong mẹ, tử vong trẻ em vẫn cao gấp 3-4 lần so với khu vực đồng bằng và đặc biệt, ở một số đồng bào dân tộc thiểu số có thể cao gấp 7 lần ở người Kinh.
Ông Y Thông, Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc dẫn số liệu điều tra thống kê thực trạng kinh tế – xã hội 53 dân tộc thiểu số năm 2019 cho thấy, 23,8% phụ nữ dân tộc thiểu số sinh con thứ 3 trở lên, bình quân 01 phụ nữ sinh 2,35 con, cao hơn mức bình quân của cả nước là 2,09 con, cá biệt có 05 dân tộc thiểu số có mức sinh cao nhất là Mảng (4,97 con/phụ nữ), Chứt (3,82 con/phụ nữ), Cơ lao (3,71 con/phụ nữ), La Hủ (3,68 con/phụ nữ), Mông (3,57 con/phụ nữ).
Còn khoảng 12% phụ nữ mang thai không đến các cơ sở y tế khám thai lần thứ nhất; tỷ lệ này rất cao ở dân tộc La Hủ 54,7%, La ha 36,5%, Mảng 34,1%. Vẫn còn 13,6% phụ nữ dân tộc thiểu số không sinh con tại cơ sở y tế, 3,9% sinh con tại nhà có cán bộ chuyên môn đỡ, 9,5% sinh con tại nhà không có cán bộ chuyên môn đỡ; một số dân tộc như Mảng, Mông, Cống và La Hủ có tỷ lệ sinh con tại nhà không có cán bộ chuyên môn đỡ rất cao, lần lượt là 50,6%, 38,8%, 37% và 36,5%;
Đáng buồn là tỷ suất chết trẻ em dân tộc thiểu số dưới 1 tuổi chiếm 2,2% (cá biệt dân tộc La Hủ 6,6%, dân tộc Lự 5,9%, dân tộc Si La 5,1%...). Vùng dân tộc thiểu số và miền núi vẫn còn 16,5% trạm y tế chưa đạt chuẩn quốc gia; gần 1/5 trạm y tế chưa có bác sỹ, số nhân viên nữ hộ sinh chỉ chiếm 15,1%; 16,5% thôn chưa có nhân viên y tế thôn bản.
Ông Y Thông cho biết, song song đó vẫn không thể không ghi nhận những công lao to lớn của đội ngũ các cô đỡ thôn bản đã ngày đêm không quản nắng mưa, "vác tù và hàng tổng", đi từng ngõ, gặp từng nhà, tuyên truyền vận động, tư vấn, can thiệp, hỗ trợ, giúp đỡ phụ nữ dân tộc thiểu số trong quá trình mang thai, sinh nở, chăm sóc trẻ em. Công sức của đội ngũ cô đỡ thôn bản đã giúp các thai phụ tiếp cận, sử dụng các dịch vụ y tế, hạn chế tai biến không đáng có, giảm đáng kể tỉ lệ tử vong mẹ, trẻ em.
Theo Thứ trưởng Bộ Y tế, kể từ khi những cô đỡ đầu tiên được đào tạo cách đây hơn 30 năm, đến hiện tại đã có 1.549 cô đỡ thôn bản được đào tạo hiện đang hoạt động trong tổng số 5.111 thôn bản đặc biệt khó khăn (chiếm 30,31%).
Các cô đỡ đang ngày đêm vượt mọi khó khăn, gian khổ, đến từng hộ gia đình tuyên truyền vận động người dân xóa bỏ các phong tục tập quán lạc hậu; tích cực tham gia quản lý thai, tư vấn giáo dục sức khoẻ, vận động sản phụ đi khám thai và sinh con tại trạm y tế xã, phát hiện thai nghén có nguy cơ để chuyển tuyến kịp thời...
Vai trò của cô đỡ thôn bản đã được ngành y tế cũng như cộng đồng địa phương ghi nhận. Đội ngũ cô đỡ thôn bản chính là cánh tay nối dài không thể thiếu của Trạm Y tế xã ở các vùng khó khăn, đặc biệt là trong công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em.
Tuy nhiên, mặc dù Việt Nam đã ban hành nhiều quyết sách quan trọng để duy trì, củng cố và phát triển đội ngũ cô đỡ thôn bản, việc thực thi các chính sách còn có sự khác nhau giữa các địa phương, dẫn tới việc duy trì hoạt động của đội ngũ cô đỡ gặp nhiều khó khăn, nhiều địa phương không bố trí kinh phí hỗ trợ cho cô đỡ thôn bản hoạt động.
Theo báo cáo của các địa phương, tính đến 31/1/2023 đã có 1.528 cô đỡ thôn bản được đào tạo nhưng đã ngừng hoạt động do không có kinh phí. Hiện tại, số cô đỡ thôn bản được hưởng phụ cấp đã giảm xuống chỉ còn 911 người, trong đó có 732 người kiêm nhiệm thêm nhiệm vụ của nhân viên y tế thôn bản.
Nâng cao chính sách hỗ trợ cỗ đỡ thôn bản
Bà Lesley Miller, Phó trưởng Đại diện, UNICEF Việt Nam nhấn mạnh, các cô đỡ thôn bản ở miền núi và vùng sâu, vùng xa là tài sản quý giá trong hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu. Việc duy trì và mở rộng mạng lưới cô đỡ thôn bản có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả sức khỏe bà mẹ, cứu sống các bà mẹ và trẻ sơ sinh.
Bà Lesley Miller cũng đề xuất lĩnh vực cần được Bộ Y tế, các Bộ ngành liên quan và chính quyền cấp tỉnh tiếp tục quan tâm và có các hành động sát sao hơn nữa bao gồm: tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình liên quan đối với cô đỡ thôn bản, đặc biệt là ở tuyến tỉnh;
Xây dựng và cập nhật các nghị quyết, kế hoạch hành động và hướng dẫn thực hiện cấp quốc gia và cấp tỉnh để hỗ trợ đầy đủ cho việc đào tạo, triển khai, vận hành và duy trì đội ngũ cô đỡ thôn bản, bao gồm việc phân bổ ngân sách đầy đủ trong bối cảnh tăng cường nguồn nhân lực cho hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Việt Nam;
Trong khi việc tăng cường đầu tư từ Chính phủ, đặc biệt là chính quyền địa phương để duy trì sự bền vững của đội ngũ cô đỡ thôn bản là điều kiện tiên quyết thì cũng cần tiếp tục huy động thêm hỗ trợ từ các đối tác phát triển, doanh nghiệp và tổ chức xã hội có liên quan, đặc biệt trong việc đào tạo xây dựng nâng cao năng lực cho cô đỡ thôn bản ở các tỉnh có nhu cầu.
Để trở thành cô đỡ thôn bản, mỗi học viên phải trải qua quá trình học tập ít nhất là 6 tháng theo chương trình và nội dung đào tạo của Bộ Y tế. Với kiến thức, kỹ năng được đào tạo và thực hành tại các bệnh viện, cô đỡ thôn, bản có thể chăm sóc bà mẹ khi mang thai và sinh con, đỡ đẻ an toàn, phát hiện các tai biến ở bà mẹ và trẻ sơ sinh, thực hiện các kỹ năng cứu sống cơ bản và chuyển tuyến kịp thời. Với sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước, sự hỗ trợ của các tổ chức trong nước và quốc tế, đến nay toàn quốc đã có 3.077 cô đỡ thôn bản được đào tạo.