Không ít nhà nghiên cứu có thể hình dung được rằng, trong khung cảnh văn hóa tiền sơ sử thời Đông Sơn 2.500 năm trước, tổ tiên ta đã từng chế tạo và sử dụng khá phổ biến chất liệu sợi tơ tằm và dệt nên những tấm lụa rất mịn mỏng dùng trong trang phục và tạo nền cho những sản phẩm sơn then cao cấp. Và buổi "rì rầm" hôm nay, tôi dành cho những bất ngờ ấy khi phát hiện nhiều bằng chứng khảo cổ cụ thể về tơ lụa Đông Sơn.
1. Thoạt đầu, vào những tháng năm chuyển giao từ thế kỷ 20 sang 21, tôi bắt gặp vết in một tập vải lụa trên một chiếc vòng đá nhờ gỉ sắt từ một dụng cụ thôi ra đã khiến chúng không bị tiêu hủy. Hiện vật thuộc Bảo tàng Lào Cai, nằm trong số di vật thu được từ san ủi một ngôi mộ quý tộc Đông Sơn Tây Âu thế kỷ 1 - 2 trước Công nguyên.
Cũng khoảng đó, khi gỡ vải từ một phần thi thể nam thanh niên Đông Sơn chôn trong mộ thân cây khoét rỗng được định tuổi C14 trong thế kỷ 4 trước Công nguyên, tôi phát hiện hai miếng đồng nhỏ như đồ đậy trên mắt người chết, trên đó hằn vết in của lụa mịn.
Tiếp tục tìm tòi, tôi phát hiện ra nhiều miếng lụa được dùng làm nền lót cho đồ sơn then đương thời, như nhĩ bôi, bao kiếm... và đặc biệt thấy vệt in lụa bên trong một ốp thắt lưng đồng, hình tròn, khai quật được ở Đình Tổ, Thuận Thành, Bắc Ninh. Đó là bằng chứng chắc chắn của người chết đương thời đã mặc phục trang lụa là, hoặc chí ít cũng là dải thắt lưng như sử sách từng ghi lại: Lạc hầu, Lạc tướng thắt lưng thao xanh, đeo ấn đồng... Trong công nghệ sơn then, các tấm vải lanh, gai được dùng làm lớp nền bên trong tạo liên kết chắc chắn, mặt gai mịn của lụa được làm nền phủ ngoài cùng trước khi quết, mài sơn.
Vào khoảng niên đại này, thế giới phương Đông đã có nhiều tác phẩm lụa nổi tiếng, trong đó phải kể đến bức trướng bằng lụa viết hàng trăm chữ trong một ngôi mộ quý tộc nước Sở khoảng thế kỷ 5 - 6 trước Công nguyên, hoặc hàng trăm trang phục và đồ vật bọc lụa được khai quật từ mộ nữ quý tộc ở Mã Vương Đôi (Mawangdui) ở Hồ Nam, Trung Quốc... Đã có một viện nghiên cứu chuyên tơ lụa dành cả một cuốn sách để khảo cứu số lụa là gấm vóc của ngôi mộ này.
Có thể nói, quý tộc Đông Sơn khi đó đã hòa chung trong một vùng văn hóa tơ lụa sớm vào loại nhất thế giới đó, và đạt đỉnh cao của mình muộn nhất cũng vào khoảng giữa thiên niên kỷ I trước Công nguyên.
"Có thể nói, quý tộc Đông Sơn khi đó đã hòa chung trong một vùng văn hóa tơ lụa sớm vào loại nhất thế giới đó, và cũng đạt đỉnh cao của mình muộn nhất cũng vào khoảng giữa thiên niên kỷ I trước Công nguyên" - TS Nguyễn Việt.
2. Khi bắt tay vào chương trình nghiên cứu vải sợi Đông Sơn năm 2001, tôi đã trình bày về chứng cứ lụa Việt Nam trên nhiều diễn đàn quốc tế thông qua những vết in được phóng đại và so sánh mật độ sợi với tơ lụa sau đó trong mộ Nguyễn Bá Khánh và Lê Dụ Tông thế kỷ 17 - 18. Kinh nghiệm hiện đại của các nghệ nhân làng Vạn Phúc để thử chất tơ tằm là đốt dưới lửa để xem độ xoắn chảy và mùi khét nướng của nhựa protein từ dãi nhộng tằm. Kinh nghiệm này không ứng dụng được cho lụa thời Đông Sơn. Cách phổ biến hơn cả là chụp scaning điện tử phóng đại (SEM) để phát hiện bọt khí li ti trong sợi dãi nhộng tằm hoặc đếm mật độ sợi ngang, dọc trên một cm2 (thường khoảng 20-30 x 40-50 sợi/1 cm2).
Có một câu chuyện lý thú xảy ra khi tôi lọc được một số mảnh vải gai, lanh Đông Sơn từ các mộ Châu Can, Động Xá năm 2000 và 2001, rồi nhận thấy chúng có những khoảng hở đều đặn như cách rút sợi vải tạo đăng ten (dental) để trang trí sau này. Tôi đã hồ hởi báo cáo sáng tạo độc đáo của thợ may thời Đông Sơn trong các hội nghị khoa học về vải sợi ở Ba Lan, Nhật Bản, cho đến khi nhận ra những vết hằn hình sóng lâu đời trên các đoạn sợi lanh, gai đăng ten đó. Và khi nhận ra khả năng tơ tằm gốc protein dãi động vật có thể bị tan trong môi trường a xít, tôi đã tiến hành đo tầng đất chứa mộ, nhận ra độ pH đều dưới 4.
Tôi đã dùng một đoạn cạp váy Mường cổ có kết hợp dệt sợi bông với tơ tằm đang lưu giữ trong bảo tàng vải sợi của mình để thí nghiệm. Viện Hóa Hợp chất Thiên nhiên thuộc Viện Hàn lâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia đã cùng tôi thực hiện thí nghiệm này. Kết quả: với hàm lượng axit sulfuric 5% thì sau 2 tuần sợi tơ tằm sẽ biến mất. Nếu tăng tới 10%, chúng ta sẽ có thể quan sát điều đó trong vòng một ngày một đêm. Và nếu 20% có thể tận mắt nhìn thấy tơ tằm tan ngay như huyền phù trong dung dịch. Như vậy đủ cơ sở khoa học để kết luận những khoảng trống trong các tấm "đăng ten" đó thực chất là sợi tơ tằm đã bị môi trường pH thấp tiêu hủy sau hàng ngàn năm trong lòng đất.
Từ đó, chúng tôi có cơ sở để phục dựng những tấm vải Đông Sơn trang trí băng màu dọc với ít nhất ba màu: trắng ngà tự nhiên của sợi gai không nhuộm, chàm của sợi lanh nhuộm indigo và màu óng vàng hay hồng đỏ của tơ tằm như cách phụ nữ Mông, Dao, Mường, Thái... hiện tại vẫn đang sử dụng.
Để kết thúc câu chuyện về lụa là thời Đông Sơn, tôi xin kể về phát hiện mới nhất khi rửa một chiếc bát gỗ sơn mài đang xử lý trong phòng thí nghiệm từ tháng 12/2023.
Chiếc bát rộng 18cm, cao 8cm, làm từ gỗ nguyên cây, thành dày 1,5 -2 cm. Trong lòng sơn màu vàng đậm, miệng viền sơn màu son thổ hoàng, bên ngoài sơn then đen bóng.
Hẳn đây là đồ đang sử dụng khi còn sống của người chết, vì trên thân có một vết rách kéo dài đến miệng bát. Vết rách đó được chủ nhân hoặc một thợ sơn nào đó dùng một miếng lụa mỏng tang, dài 12 cm rộng 1,2cm dán che vết nứt, làm nền cho sơn then bọc một lớp bảo vệ mới gắn liền vết rách đó. Thật là một chứng cứ sinh động với lụa thời xa xưa trên 2000 năm trước.
Lụa trong xã hội Đông Sơn
Lụa đã được dùng khá phổ biến trong xã hội Đông Sơn. Câu chuyện Man Nương - tương truyền là mẹ Hai Bà Trưng - là người trồng dâu nuôi tằm dệt lụa được ghi trong dã sử từ hàng ngàn năm nay. Rồi, Ả Lã được thờ ở nhiều làng lụa và cho rằng đó là tổ nghề dệt với một loại khung tơ tằm nào đó thời Đường để mở ra con đường tơ lụa từ đất Giao Châu An Nam đô hộ phủ ngược sông Hồng qua Vân Nam vào thế giới Ấn Độ, Ả Rập.
Chuyện dâu tằm lụa là còn đọng lại ở một hoàng hậu nổi tiếng với tên Ỷ Lan (tựa cành dâu) thế kỷ 11, hiện được thờ ở chùa Bà Tấm vùng Sủi (Gia Lâm, Hà Nội), Ghênh, Lạng (Văn Lâm, Hưng Yên)... Vùng đất cổ cả tả ngạn và hữu ngạn sông Hồng này còn phủ dày phấn hoa cây dâu đến nỗi bất kỳ lúc nào, ở đâu cũng có thể xuất hiện những cây dâu hoang cho đến tận ngày hôm nay.
(còn tiếp)
Tags