72 năm Ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7/1947 - 27/7/2019: Chuyện ở đầu đường 19

Thứ Bảy, 27/07/2019 07:08 GMT+7

Google News

(Thethaovanhoa.vn) - Chiếc com-măng-ca của Quân đoàn 3 chạy trong đêm, đưa tôi từ Pleiku, theo đường 19, xuống ga Diêu Trì, lúc 1h sáng. Đây là điểm đầu của con đường nổi tiếng này. Không may, tàu hỏa ra Bắc chậm 2 tiếng! Đi cùng tôi là một sĩ quan thuộc Nhà văn hóa Quân đoàn - đại úy Đỗ Tiến Thụy -và đồng chí lái xe.

Nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7: Di chứng chiến tranh

Nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7: Di chứng chiến tranh

Cùng từ chiến trường trở về song mỗi người lính lại mang một cảnh đời khác nhau. Người may mắn vượt mưa bom, bão đạn mà thân thể vẫn lành lặn. Cũng có những người mà nỗi đau có thể cảm thấy rõ mỗi khi trái gió, trở trời;... Nhưng nỗi đau dai dẳng và khốc liệt nhất là khi từng ngày, từng giờ chứng kiến di chứng chiến tranh đày đọa đời con, đời cháu ...

Thực ra, hai người bạn đường mà tôi vừa kể, nhận lệnh Quân đoàn, hộ tống tôi cùng anh trai tôi, anh Đỗ Trung Cẩn, xuống ga Diêu Trì và chỉ được quay về đơn vị sau khi anh em tôi đã lên tàu ra Bắc.

Vì tàu chậm những 2 tiếng, tức là tới 3h sáng, chúng tôi mới có thể chia tay nhau, chúng tôi chọn một quán bia nhỏ bên ga, dùng một chút cho lại sức và đợi tàu.

Vừa định nâng ly, Đỗ Tiến Thụy kêu lên:

- Không được! Chúng ta không thể chạm ly mà thiếu bác Cẩn.

Rồi không để tôi kịp nói gì, Thụy ra xe, nâng anh tôi bằng hai tay, đưa vào quán, đặt lên chiếc ghế nhựa bên bàn.

- Thế là tròn mâm bốn - Thụy khẽ nói.

Tôi rơi nước mắt. Anh Cẩn của tôi đó. Anh hai của tôi đó. Bây giờ, anh nằm gọn trong một chiếc túi du lịch, sau một lớp ni lông và một lớp vải liệm!

Phải, anh tôi hy sinh ngày 28/3/1971 ở Tây Nguyên, lúc tròn 30 tuổi. Anh nhập ngũ năm 1965 và “Đi B” (đi chiến trường miền Nam) cùng năm. Bây giờ, gần sáng ngày 26/3/1999, tại Diêu Trì, sau 28 năm trời, nhờ Quân đoàn 3 giúp đỡ, tôi mới có thể đưa hài cốt anh trai mình về quê và mới được chạm ly với anh, trong hoàn cảnh ấy!

Chú thích ảnh
Thắp hương tri ân các anh hùng liệt sĩ. Ảnh: Báo Gia Lai

Thế là cứ mỗi một lần nâng ly, chúng tôi lại cùng chạm vào ly của anh tôi rồi mới tiếp tục. Mắt ai cũng đỏ hoe.

Đến một lúc, không thấy ai rót bia nữa! Gọi, chỉ có cô chủ quán rón rén và run rẩy tới bên bàn. Cô ấy bảo:

- Các em chúng nó nhìn các bác chạm ly mà hãi quá, không đứa nào dám ra nữa! Em cũng thế, nhưng vì các bác gọi mà phải ra vậy! Thật sự là thế nào, các bác ơi!

Khi ấy, tôi đành phải đứng lên và nói rõ hết sự tình rồi có lời:

- Sự thực là như vậy. Nếu nhà hàng sợ quá, chúng tôi xin được rời đi. Còn nếu nhà hàng thông cảm, tôi xin được thắp một nén nhang khấn anh tôi, để anh phù hộ cho nhà hàng ta luôn phát đạt.

Cô chủ quán đáp:

- Chưa biết thì chúng em rất sợ. Giờ biết rồi, không sợ nữa. Các bác cứ ngồi cho đến lúc tàu về.

Y hẹn, tôi châm một nén nhang, theo gót cô chủ quán, cắm lên bát hương cầu lộc của nhà hàng.

Tàu về, tôi chia tay Thụy và đồng chí lái xe, lên tàu cùng hài cốt của anh mình, ra Bắc. Sáng sớm ngày 28/3/1999, tàu về đến ga Hàng Cỏ. Do đã điện trước, vợ tôi đón sẵn ở đó và chúng tôi thuê xe đưa hài cốt anh mình về quê - xã Phùng Xá, huyện Mỹ Đức, Hà Tây cũ, nay là Hà Nội.

Cũng do điện trước, khi chúng tôi về đến nơi, tại sân vận động xã, các vị lãnh đạo “Quân - Dân - Chính - Đảng” và đông đảo đồng bào Phùng Xá đã chờ sẵn, tiến hành lễ truy điệu và đón anh tôi vào Nghĩa trang Liệt sĩ xã.

Kỳ lạ nhất là khi đồng chí Chủ tịch xã đọc xong điếu văn truy điệu, nói rõ ngày tháng, tôi mới biết, hôm ấy cũng là ngày (Dương lịch) anh tôi hy sinh! Trước đó, theo tập tục cúng giỗ dân gian, trong đầu tôi chỉ nhớ ngày Âm lịch (mùng 3 tháng Ba) thôi. Và rồi bỗng nhiên, toàn bộ hương trên chiếc lư lớn như chiếc vạc, cùng bốc cháy, cháy hết cả chân hương, cháy đến bằng mặt cát! Anh tôi giờ mới thực về chăng?

Nhiều năm trước, cha mẹ tôi không thể chờ anh tôi và đã khuất núi. Bây giờ, chắc dưới suối vàng, cha mẹ tôi đã có thể bớt ngậm ngùi.

*

Sau này, Đỗ Tiến Thụy trở thành một nhà văn quân đội. Nhiều năm nay anh chuyển công tác về Tạp chí Văn nghệ Quân đội ở Hà Nội và vừa nhận quân hàm thượng tá. Tôi cũng đã là một đại tá về hưu nhiều năm. Cứ đến ngày 27/7 hằng năm, tôi lại không thể không nhớ Quân đoàn 3, con đường 19 và ga Diêu Trì được.

Khi bốc mộ anh tôi, tôi có thắp hương, đọc rồi đốt hai bài thơ tôi viết tại Nghĩa trang Liệt sĩ Pleiku trong những ngày chờ được phép di dời hài cốt anh mình. Một bài viết về toàn thể khoảng 3.000 ngôi mộ liệt sĩ ở đó (có 3 ngôi mộ tập thể!) và một bài viết riêng cho anh Cẩn của tôi.

Hai bài thơ ấy có tựa đề: Thơ viết ở Nghĩa trang Liệt sĩ Pleiku, Gia Lai Thơ bên mộ liệt sĩ Đỗ Trung Cẩn ở Nghĩa trang Liệt sĩ Pleiku, Gia Lai.

Theo nhật ký của bác sĩ Lê Cao Đài, người mở ra Bệnh viện Tây Nguyên thời chống Mỹ, thì trong tổng số thương bệnh binh nhập viện và không thể cứu nổi ở đây, chỉ có 15% hy sinh trực tiếp vì bom đạn. 85% liệt sĩ còn lại, hy sinh vì rất nhiều lý do khác như là: Sốt rét, đói, tai nạn đường rừng... Trong đó, nhiều nhất là vì sốt rét!

Thơ viết ở Nghĩa trang Liệt sĩ Pleiku, Gia Lai

Ngổn ngang mây trắng trên đầu
Ba ngàn mộ trắng một mầu như mây

Mây trên ấy còn bay muôn thuở
Ba ngàn nay đã bỏ tay chèo
Ba ngàn mãi mãi buông neo
Ba ngàn mãi mãi nằm theo đội hình

Ba ngàn phận, tình ba ngàn khối
Vọng cố hương từ cuối chân trời
Ai người cha mẹ khuất rồi?
Ai người vợ góa con côi đến giờ?

Ai ngã lúc mịt mờ lửa đạn
Còn vùng lên trao bạn lá cờ?
Ai người lạc nước sa cơ
Mười năm thao lược, một giờ buông tay?

Ai đi nhẹ như mây như khói?
Ai đi sau cơn đói dài ngày?
Ai vì sốt rét về đây?
Ai vì lở đá, đổ cây giữa rừng?

Ai vượt thác nửa chừng cạn sức?
Ai bờ khe mép vực sa chân?
Ai người số phận xoay vần
Hùm xanh, báo trắng, voi thần đem đi?
Ai đã chẳng tiếc gì máu nóng
Bỏ thân mình cho sống bạn mình
Rồi đi, không ảnh không hình
Đem sinh mệnh đúc khối tình tặng nhau?

Những ai nghỉ cùng sâu một mộ
Biết tìm đâu cho đủ hình hài?
Chẳng sinh từ một bào thai
Ôm nhau, cốt nhục Đông- Đoài xá chi

Những ai kịp thầm thì trăng trối
Phút cuối cùng đứt nối lời thiêng?
Ai người lịm tắt trong đêm
Nằm im trên võng mà quên cuộc đời?

Ai người mười tám, đôi mươi?
Ai người tóc bạc? Ai người hoa râm?
Ai là cán? Ai là quân?
Bây giờ trắng xóa quây quần bên nhau.

Ngổn ngang mây trắng trên đầu
Ba ngàn mộ, trắng một mầu như mây.

Đỗ Trung Lai

Thơ bên mộ liệt sĩ Đỗ Trung Cẩn ở Nghĩa trang Liệt sĩ Pleiku, Gia Lai

Ước gì anh lên đây được
Ngồi nghe em kể chuyện nhà
Ước gì anh lên đây được
Nói cười như những ngày xa

Cha mẹ chúng mình đã khuất
Không ai chống được tuổi già
Anh em yên bề gia thất
Mình anh nhân ảnh nhạt nhòa
Đồng làng giờ ba bốn vụ
Cơm làng thôi độn khoai ngô
Thế mà ngày anh đánh giặc
Lội rừng, lấy sắn làm no

Giờ vải lụa đâu nhiều quá
Làng mình thưa tiếng thoi đưa
Né kén nong tằm cũng ít
Làm nhiều, hàng bán ai mua?

Sông Đáy trước nhà vẫn thế
Mùa này nước màu xanh lơ
Cá tôm càng ngày càng hiếm
Ít ai cất vó đặt lờ

Mỗi bận về sông thấy cát
Em thường nhớ anh ngày xưa
Cao lớn, lông mày lưỡi mác
Sải tay bơi giữa hai bờ

Anh của em là thế đấy
Chỉ thích những con sông đầy
Để lao mình vào nước xiết
Thách cả trời cao đất dày

Bây giờ trời cao đã thắng
Vùi anh vào lòng cao nguyên
Bây giờ đất dày ba thước
Làm sao đưa được anh lên?

Bây giờ em ngồi bên mộ
Dưới lòng đất đỏ là anh
Trên trời, mây bông trắng nõn
Nhởn nhơ trông rất hiền lành

Thế mà lòng trời thuở ấy
Còn sâu hơn ngàn vực sâu
Ngày nào cũng đầy khói lửa
Đêm nào cũng đầy hỏa châu

Từ nay em không tin nữa
Rằng lượng trời rộng vô cùng
Trời mang bao người rất trẻ
Về nơi vô thủy vô chung

Vẫn biết vào cơn gió bụi
Xưa nay mấy kẻ trở về
Vẫn biết các nhà liệt sĩ
Đều vì lẽ sống mà đi

Nhưng trước nấm mồ ruột thịt
Em như người đứt cánh tay
Xin liệm thêm vào dưới ấy
Của em, lời xót thương này!

Đỗ Trung Lai

Đỗ Trung Lai

Đọc thêm
  • Xem thêm  ›