(Thethaovanhoa.vn) - Trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn đã tuyên bố, Thăng Long "ở nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi… đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây, lại tiện nghi núi sông sau trước”. Không thể phủ nhận rằng, cùng với thiên thời và nhân hòa thì "địa lợi" là một trong những yếu tố để người xưa đi đến quyết định chọn Thăng Long là kinh đô muôn đời cho con cháu đời sau.
Xem chuyền đề "Mọt sách, mọt sử, mọt phim tại đây"
Sau hơn 1.000 năm tới nay, những yếu tố làm nên phong thủy của Thăng Long xưa đã thay đổi đi nhiều, cần có một cuộc khảo sát dưới góc độ địa chí mới có thể hình dung lại được.
TT&VH xin giới thiệu loạt bài về ký ức Hà Nội của tác giả Nguyễn Ngọc Tiến, một nhà “Hà Nội học” từng đoạt giải Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội” cho hai cuốn sách “Đi dọc Hà Nội” và “Đi ngang Hà Nội”
“Thế rồng cuộn hổ ngồi”
Kinh đô Hoa Lư ở vị trí cuối non đầu nước, tiện cho việc lui khi có giặc ngoại xâm đe dọa nhưng Lý Công Uẩn nhận thấy nếu cứ ở đây thì đường sá đi lại không thuận tiện, không tương xứng với vị thế của đất nước đang vươn lên nhanh chóng, nên muốn dời đô ra vị trí thành Đại La xưa. Ông cho người đi thăm dò để biết thế đất, thế sông núi ở nơi mà ông sẽ dựng kinh đô mở mang cơ nghiệp nhà Lý.
Trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn viết: “Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa Nam Bắc Đông Tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”.
Thế núi và mặt đất rộng và bằng phẳng mà Lý Công Uẩn nói chính là yếu tố phong thủy của một vùng đất. Không chỉ có vậy, quanh thành Đại La xưa còn có một dải sông Lô tiếp giáp với với vùng Phong Châu, Bạch Hạc (nay thuộc Phú Thọ), Tam Đái (nay thuộc Vĩnh Phúc), dưới liền sông Đại Hoàng, phủ Lý Nhân (nay thuộc Hà Nam). Dòng sông Nhĩ (đoạn sông Hồng chảy qua Hà Nội) chảy vòng quanh như vành khuyên.
Với người xưa, phong thủy là yếu tố không thể thiếu được khi người ta chọn vị trí đặt kinh đô, đặt phủ hay xây các công trình lớn như: cung điện, đền đài. Các công trình nhỏ gồm: chùa, đình cũng không thể bỏ qua yếu tố phong thủy.
Phong thủy hiểu một cách đơn giản là trước phải có tiền án, công trình lớn thì là quả núi, ngọn đồi, nhỏ thì là mô đất để chắn, trấn giữ không cho tà thần hung khí vào chính đường. Bên phải hay bên trái phải có gì được mệnh danh là Bạch Hổ và Thanh Long để hỗ trợ. Sau lưng phải có cái gì đó làm chỗ dựa vững chắc cho công trình gọi là hậu chẩm. Với kinh đô lại phải có sông hay hồ dài gọi là long mạch và phải luôn được khai thông để giữ vượng khí.
Nếu mọi nếu tố thuận lợi nhưng về phong thủy lại thiếu hoặc không đầy đủ thì người ta phải sửa lại thiên nhiên, đắp núi giả, đào lại sông uốn nắn theo hướng muốn có. Mục đích của phong thủy là đảm bảo cho công trình tránh được những tác hại của thiên nhiên huyền bí có được chỗ dựa vững chắc của khí thiêng đất trời.
“Cao nhất xích vi sơn”
Từ khi Lý Công Uẩn xây cung ở phía Đông thành Đại La, ông đã có ý định hoàn thiện các ảnh hưởng của phong thủy tới thành với mong muốn thành bền vững trong đó có đắp núi đất.
Người xưa quan niệm “Cao nhất xích vi sơn” (cao một mét cũng gọi là núi) nên núi ở Thăng Long và Hoàng thành không cao. Trong trại Hàng Hoa xưa (nay là vườn Bách Thảo) có núi Sưa. Trên đỉnh ngọn núi này còn có một ngôi đền nhỏ thờ Hắc đế. Tấm biển trên ngôi đền ghi dòng chữ: “Sưa sơn lăng miếu”.
Ở đường Hoàng Hoa Thám có núi Voi. Cuối thế kỷ 19, chính quyền Pháp đã cho phép xây dựng nhà máy bia Hommel (nay là Nhà máy bia Hà Nội) ở vị trí này.
Trong thành Hà Nội xưa cũng có 4 quả núi. Sách Thượng kinh phong vật chí viết: “Thượng kinh có núi Nùng ở giữa trên núi có một chỗ hõm xuống gọi là rốn rồng. Phía Bắc có Tam Sơn, phía Tây có Thái Hòa, phía Tây Bắc có Khán Sơn…”
Nùng Sơn là núi quan trọng nhất đối thành Thăng Long. Vua Thành Thái đoán núi Nùng rất cao, có mây bao quanh nên mới viết: “Nùng lĩnh phù vân kim cổ sắc” (Mây trên núi Nùng mang màu kim cổ). Người xưa có câu: “Sơn bất tại cao, hữu thần tắc linh” nghĩa là núi thiêng không bởi cao mà có thần trên đó là thiêng. Nùng Sơn là núi thiêng.
Nhà sử học Phan Huy Chú viết trong Hoàng Việt Dư địa chí: “Núi Nùng ở giữa thành. Triều Lý định đô lấy núi làm đài chính điện, đến thời Lê là điện Kính Thiên, nay (triều Nguyễn) là điện phía trước hoàng cung. Xưa truyền rằng giữa núi có một lỗ hổng là nơi thông hơi của hồ ao và núi, nên gọi là Long Đỗ (rốn rồng)”.
Sách Đại Nam Nhất thống chí của nhà Nguyễn cũng chép: “Núi Nùng ở trong thành, có tên nữa là núi Long Đỗ. Lý Thái Tổ đóng kinh đô, dựng chính điện ở trên núi, đời Lê gọi là điện Kính Thiên, bản triều (Nguyễn) đặt làm hành cung, vẫn gọi theo tên cũ, năm Thiệu Trị thứ ba, đổi gọi là điện Long Thiên, điện Đình ở núi Nùng, có xây bệ cao chín bậc, tả hữu có hai con rồng, dài hơn một trượng, chế từ đời Lý”.
Ngôi làng nhỏ ven sông Tô Lịch xưa trở thành kinh đô năm 1010 thì thần Long Đỗ núi Nùng được vua Lý phong là “Quốc Đô Định Bang Thành hoàng Đại Vương”. Khi xây chính điện thì đền thần Long Đỗ núi Nùng được dời ra ngoài thành đền Bạch Mã, (nay ở số 78 phố Hàng Buồm). Người xưa gọi là “Nùng Sơn chính khí” là khí chất thiêng liêng của Hà Nội cổ. Khi thành thất thủ, người Hà Nội đã cảm khái:
Uất khi Nùng Sơn cây muốn cựa
Thương tâm Nhị thủy sóng tranh xao
Đời nhà Lê, vua Lê Thánh Tông thường lên Khán Sơn xem duyệt binh vì xung quanh có khoảng rộng đủ chỗ binh lính diễu hành. Năm Dương Đức (1673) vua Lê Gia Tông cho dựng chùa trên núi, chùa thờ Phật có cả tượng Lê Thánh Tông.
Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại quân Tây Sơn lập ra triều Nguyễn đã chuyển kinh đô vào Huế đồng thời cho phá thành Thăng Long thời Lê để xây thành mới gọi là Bắc thành (sau gọi là thành Hà Nội). Vì kinh đô của Đại Nam ở Huế nên Bắc thành phải nhỏ và thấp hơn. Tuy nhiên vị trí các quả núi trong thành tượng trưng cho ngũ hành vẫn giữ nguyên.
Theo phong thủy, Khán Sơn tượng trưng cho sao Kim trấn trị phía Tây của thành. Thời Tự Đức (1848) bố chánh Hà Nội là Lê Hữu Thanh cùng với tổng đốc Hà Ninh là Hoàng Thu cho xây một ngôi đình nhỏ trên Khán Sơn làm chỗ hội họp của văn nhân hàng tháng, họ uống rượu làm thơ. Các nhà Nho Hà Nội như Lê Đình Diên, Nguyễn Siêu lên đây uống hoàng hoa tửu vào Tết Trùng cửu (9/9 Âm lịch). Sau khi Pháp chiếm thành Hà Nội, Khán Sơn bị bỏ hoang đổ nát rồi bị phá hủy. Năm 1889, tượng Lê Thánh Tông được đưa về thờ ở chùa Dục Khánh bên cạnh đền Huy Văn.
Tam Sơn nằm ở phía Bắc của thành là hai doi đất dính ở phía đầu tách ra ở phía cuối, tượng trưng cho sao Thủy và Thổ, kết nối với đền Trấn Vũ tạo thành vòng cung trấn giữ phía Bắc của thành. Tháng 4/1882, thực dân Pháp tấn công thành, vì ít quân, vũ khí lạc hậu và nhiều tướng đảo ngũ nên thành thất thủ.
Giữ khí tiết với Thăng Long, Tổng đốc Hoàng Diệu đã treo cổ tự vẫn trên Tam Sơn. Năm 1885, núi bị san phẳng, sang đầu thế kỷ 20 chính quyền cho xây trường Alber Sarraut ở vị trí núi xưa. Phía Đông của thành có núi Thái Hòa tượng trưng cho sao Mộc bị san phẳng năm 1885. Phía Nam vị trí Cột cờ thời Lê cũng là một núi thấp tượng trưng cho sao Hỏa.
Dời đô về Thăng Long là sự lựa chọn, phát huy thuận lợi của cả thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Về mặt địa lợi, sử gia Ngô Thì Sĩ đã phân tích rất rõ: “Đất Long Đỗ là nơi Cao Biền đóng ở đấy, núi Tản Viên chống vững một cõi, sông Phú Lương như hào trời sinh ra, ngàn dặm bằng phẳng, trăm họ giàu có, phía tây thông với Sơn Tây, Tuyên Hưng; phía Bắc thấu đến Ninh Sóc, Kinh Bắc. Miền Đông Nam thì vận chuyển bẳng thuyền, miền Cần Xương thì liên tục bằng trạm, là nơi trung tâm của nước bốn phương chầu về. Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông, trước mặt là biển. Địa thế hùng mạnh mà hiểm, rộng mà dài, có thể làm cho nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền. Hình thế nước Việt thật không nơi nào được như nơi này”. (Theo Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội) |
(Còn nữa)
Nguyễn Ngọc Tiến
Tags