Trên con đường lên đến gần nhà ông Hồ ở thôn Bản phố 2a gặp nhiều đoàn khách du lịch nước ngoài đang tản bộ. Đến nhà ông Hồ gặp ông đang tiếp đoàn khách du lịch Trung Quốc, thấy tôi, ông hồ hởi mời vào nhà, cùng nhâm nhi chén rượu ngô và ngồi xem ông biểu diễn. Căn nhà nhỏ đơn sơ, mộc mạc vẫn vậy, trên nóc chiếc tủ đặt giữa tiền sảnh, ông Hồ vẫn để các loại nhạc cụ là cây sáo trúc, đôi khèn, cây gậy sênh tiền... Cạnh đó, trên vách nhà treo con dao, cái lưỡi liềm buộc sợi chỉ đỏ ở đuôi ngụ ý báo chỉ để biểu diễn.
Khách du lịch đến thăm dân tộc Mông Bản phố
Bản Phố theo tiếng gọi của người Mông địa phương nghĩa là “phố trên núi”, toàn xã có 568 hộ gia đình người dân tộc Mông, cư trú ở 13 thôn, bản. Người dân bản địa vẫn giữ gìn được nghề truyền thống là nấu rượu ngô đặc sản, rèn đúc nông cụ và gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống vô cùng đặc sắc. |
Tuy vậy xem ông Hồ biểu diễn thật ấn tượng, điệu múa khèn, múa sênh tiền đầy uyển chuyển, điệu múa võ khi cương thì mạnh mẽ, dứt khoát, khi nhu thì thật thư thái, phong độ.
Ðàn môi của người Mông được chế tác bằng một miếng đồng. Người ta cắt ra thành lưỡi có hai đầu nhọn, còn ở giữa hơi phình to. Khi chơi chủ yếu dùng hơi, kết hợp với lưỡi, tay gảy sao cho theo nhịp của bài hát. Loại nhạc cụ này phần lớn dành cho các thiếu nữ Mông dùng để tỏ tình, tâm sự với bạn trai khi đi chơi, đi chợ, chơi hội... |
Ông Hồ cho biết: "Loại nhạc này chủ yếu là nam giới sử dụng trong đám tang, thanh niên dùng trong những ngày hội hè. Không chỉ để thổi, khèn dùng để múa. Ðây là một điệu múa đặc sắc nhất của người Mông. Hiện nay còn ít người biết múa được điệu múa này”. Ông Hồ là một trong số ít người có may mắn được truyền thụ. Ngồi xem ông múa khèn, những điệu múa vừa uyển chuyển, nhẹ nhàng như "rồng bay, phượng múa", vừa mạnh mẽ, vừa dứt khoát.
Cuối cùng ông Hồ kể cho chúng tôi nghe về điệu võ cổ truyền dân tộc Mông. Triết lý cơ bản trong võ thuật cổ truyền của người Mông là lấy nhu thắng cương, dụng trí địch dũng. Đặc trưng võ thuật cổ truyền của người Mông là phóng khoáng, hạn chế niêm luật, nên các bài tập thường không giống nhau và có thể mỗi võ sư lại có quyền đạo khác nhau. Do địa hình sinh sống của người Mông thường là chật hẹp và phức tạp, nên các bài quyền có điểm chung là di chuyển linh hoạt, uyển chuyển. Thiên về phòng thủ hơn là tấn công, khi tấn công thường ở tầm thấp và tổng hợp nhiều lực (bằng cả hai chân, hai tay).
Ông Hồ bảo, đã 6 - 7 năm nay khách hay đến, đặc biệt là trong 2 – 3 năm gần đây, mỗi tuần vào thứ 7, chủ nhật có từ 4 - 5 đoàn khách, trên dưới chục người, chủ yếu là khách “tây” như Anh, Pháp, Mỹ, Úc, Tây Ban Nha, Trung quốc, Hà Lan, Thụy Điển… phần lớn do các hướng dẫn viên của Khách sạn Sao Mai ở trung tâm huyện dẫn đến.
Tôi hỏi: “Thế bác có quy định lấy tiền công biểu diễn không?”
Ông Hồ cười nói: “Với mình được biểu diễn, được mọi người biết đến, khen ngợi, cổ vũ là vui rồi! Vì mình đã giới thiệu được tinh hoa văn hóa dân tộc Mông cho bè bạn khắp nơi, mình không quy định lấy tiền công biểu diễn. Các đoàn khách đến, đều mời rượu ngô đặc sản… Có đoàn khách “thoáng” tự cho 200 ngàn, đều đều là 100 ngàn, chắc họ trả mình tiền rượu, vì qua mạng họ biết rượu ngô đặc sản Bản phố rất ngon và giá cũng khá cao. Mỗi đoàn đến mình cũng mời uống hết 2-3 lít. Thỉnh thoảng có đoàn không cho gì cũng không sao, chắc là tụi “tây ba lô”…"
Trông nhà ông Hồ còn nghèo lắm, một ngôi nhà nhỏ tường trình đất, lợp ngói không có vật dụng gì nhiều ngoài cái bàn uống nước và cái tủ cũ, vài cái giường một ọp ẹp cho 5 người trong gia đình. Trên gác nhà là hơn chục bao tải thóc, ngô để nấu rượu, còn lại không có gì. Có thể đứng ở cái bàn uống nước cầm một hòn đá nhỏ ném xuống gian bếp mà không chạm gì cho đến khi hòn đá đập bộp vào tường trình đất.
Ông Lý Seo Hồ vẫn vậy sau bao năm nay. Con người văn võ song toàn ấy vẫn miệt mài giữ lửa cho dân tộc mình, sống thanh cao giữa núi rừng, không gợn chút toan tính đời thường.
Dân ca Mông là những bài hát do đồng bào tự sáng tác và được lưu truyền từ lâu đời. Các bài ca này có phần lời ca, âm nhạc và cả nghệ thuật diễn xướng. Dân ca Mông có thể phân thành ba loại phổ biến nhất là dân ca gắn liền với phong tục, dân ca gắn liền với lao động sản xuất, dân ca trữ tình sinh hoạt (như dân ca giao duyên, dân ca than thân, dân ca nghi lễ phong tục gia đình). Ðó là loại dân ca gắn liền với cuộc sống, tình yêu nam nữ, tất cả những gì con người đều gửi gắm trong lời ca để nói lên lời tâm sự, tiếng hát ru em bé trên lưng mẹ... (Ông Lý Seo Hồ) |