(Thethaovanhoa.vn) - Chưa có một thống kê chính thức về số lượng kịch bưng biền thời Nam bộ kháng chiến, vì hoàn cảnh chiến tranh, đa số vở diễn chỉ được truyền miệng, ngẫu hứng ứng tác và trình diễn, ít khi có kịch bản được in ấn, ghi chép cụ thể.
Trong sách nghiên cứu Văn học Nam bộ 1945 - 1954 (NXB Tổng hợp TP.HCM) vừa phát hành, chương 6 là Kịch Nam bộ 1945 - 1954 do Thạc sĩ Lê Thụy Tường Vy và Tiến sĩ Nguyễn Thị Phương Thúy viết, đã phác họa một phần đáng kể về kịch Nam bộ giai đoạn đặc biệt này.
Khái niệm văn học bưng biền, điện ảnh bưng biền, sân khấu bưng biền, báo chí bưng biền… gắn liền với giai đoạn Nam bộ kháng chiến 1945 - 1954 ở các chiến khu, với những đặc trưng rất riêng, ít vùng miền có được.
Từ việc cải lương bị lên án
Nếu ở các đô thị, đặc biệt là Sài Gòn, cải lương đã lấn lướt kịch từ khi mới manh nha hồi thập niên 1910 cho đến hết thập niên 1970, thì trong bưng biền, chiến khu có vẻ ngược lại. Tại Hội nghị tranh luận về sân khấu ở Việt Bắc năm 1950, cải lương từng bị một số người phê phán với nhiều định kiến... Thành ra, tại các vùng bưng biền, chiến khu ở Nam bộ, kịch nói hiện đại được gián tiếp tạo điều kiện để phát triển sôi động, vì nhu cầu giải trí, tuyên truyền vẫn rất mạnh.
Đầu tiên là các tiểu phẩm kịch nói, các vở kịch ngắn, kịch một hồi… được sáng tác, trình diễn khắp nơi, phản ánh kịp thời thực tế kháng chiến. Một số vở kịch ngắn còn được ghi lại là Cụ Hồ (công diễn năm 1946), Năm cánh sao vàng (1947), Trai thời loạn (1948), Những bàn tay xây dựng, Hả dạ, Vì dân, Tại ai?, Chuyến công văn, Bảo vệ Liên Xô (1951)… Dấu vết các sân khấu kịch lưu động ở khắp rừng U Minh, mở rộng đến vùng bưng biền Đồng Tháp Mười, ở các tỉnh Trà Vinh, Long An…
“Đề tài của kịch kháng chiến Nam bộ thường hướng vào thực tiễn sản xuất, chiến đấu, tập trung nhất là hình ảnh người chiến sĩ bưng biền, tinh thần đấu tranh của đồng bào Nam bộ và tình quân dân cả nước. […]. Bên cạnh những vở kịch lấy cảm hứng từ đời sống kháng chiến đương thời, kịch chiến khu còn cho ra đời một vở rất đặc biệt, phóng tác từ văn học nước ngoài, đó là vở Người mặt cháy do Bảo Định Giang viết, dựa theo truyện ngắn Tính cách Nga của nhà văn Xô Viết Alexei Tolstoy”. […]. Trong phong trào kịch quần chúng rất phổ biến hình thức kịch lửa trại, tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ hình thức kịch ứng diễn (diễn cương). Trong hoàn cảnh và nhu cầu diễn kịch, xem kịch rất lớn mà nguồn kịch bản lại hạn chế, kịch cương đáp ứng năng động, linh hoạt đòi hỏi của văn nghệ kháng chiến” - theo Văn học Nam bộ 1945 - 1954.
Các vở kịch thơ như Những người cộng sản của Phạm Minh Hòa, Thủ khoa Huân của Viện Văn hóa Nam bộ, Áo đêm trăng của Nguyễn Bính… cũng được luân phiên diễn ở các chiến khu.
Đến việc kết nối với đô thị
Nhiều gánh hát, đoàn kịch từ các đô thị (chủ yếu là từ Sài Gòn) đến diễn ở các bưng biền, chiến khu, đã mang các vở như Lục Vân Tiên, Nhạc Phi, Lưu Kim Đính, Trương Phi… để khích lệ tinh thần chiến đấu. Bên cạnh các nghệ sĩ đặc tình, hoạt động thành, nhiều nghệ sĩ đã nhảy vào bưng biền để trực tiếp tham gia kháng chiến như Tư Trang (Trần Hữu Trang), Tám Danh (Nguyễn Phương Danh), Tư Xe (Nguyễn Văn Xe), Ba Du (Phan Văn Hai)…
Ở đô thị, có nhiều ban kịch kết nối với bưng biền, chiến khu để diễn những vở kịch lịch sử, có lợi cho tinh thần đấu tranh, chống ngoại xâm. Ban kịch Sinh viên do Bùi Kiêm Kích làm trưởng ban là một ví dụ điển hình, khi đã sáng tác, trình diễn, lưu truyền nhiều vở kịch nói như Đời chiến sĩ, Đêm Lam Sơn, Nợ Mê Linh, Lương Kha (kịch thơ), Những người đau khổ nhất thế giới (kịch văn xuôi)… Sau tháng 3/1945, ban kịch Sinh viên đổi tên thành ban kịch Việt Minh, công bố thêm 4 vở kịch thơ mới là Hội nghị Diên Hồng, Con thỏ ngọc, Nỗi lòng Hưng Đạo và Tâm sự Lương Khê.
Sách của Lê Thụy Tường Vy và Nguyễn Thị Phương Thúy viết: “Năm 1948, Mai Văn Bộ, Nguyễn Thành Châu, Trần Hữu Trang và nhiều nghệ sĩ yêu nước khác xây dựng Đoàn Việt kịch Năm Châu. Đây cũng là cơ sở của Việt Minh đầu tiên trong giới nghệ sĩ sân khấu thành phố, là nơi tập hợp liên lạc của giới nghệ sĩ, trí thức kháng chiến nội, ngoại thành. Đoàn chuyên diễn những vở tuồng xã hội và những vở phóng tác từ tiểu thuyết phương Tây”.
Sau Việt kịch Năm Châu, Phụng Hảo thì đã có vài ban kịch khác ủng hộ, kết nối với tinh thần kháng chiến từ bưng biền vọng về. Giai đoạn này ở đô thị cũng xuất hiện nhiều kịch thơ như Nỗi lòng Hưng Đạo, Phần thưởng quý, Dòng thác lũ, Lữ Gia, Hồ Quý Ly, Lão ăn mày, Trần Bình Trọng, Tráng sĩ Việt Nam, Tây Đô, Ai tìm lý tưởng…
- Nhìn lại 100 năm sân khấu Kịch nói Việt Nam (Kỳ 3): Đỉnh cao, thoái trào và 'chuyển hoá'
- Nhìn lại 100 năm sân khấu kịch nói Việt Nam (kỳ 2): Một đối sánh cùng cải lương
- Nhìn lại 100 năm sân khấu kịch nói Việt Nam (Kỳ 1): Điểm nhấn kịch xã hội hóa từ TP.HCM
Sách Văn học Nam bộ 1945 - 1954 cho biết: “Khác với khu vực phía Bắc, nơi một số kịch thơ được viết ra để đọc chứ không phải diễn, kịch thơ Nam bộ đa phần hướng đến sân khấu, có vở được chuyển thể cải lương và gây được tiếng vang nhờ sân khấu cải lương, như trường hợp kịch thơ Tây Thi gái nước Việt. Một số khác được diễn trên đài phát thanh, chứ không phải trên sân khấu kịch, như các vở của Nguyệt Cầm”.
Văn học Nam bộ 1945 - 1954 cũng đã kết luận: “Tóm lại, hoạt động kịch nói và kịch hát khá sôi nổi ở cả đô thị và chiến khu Nam bộ trong giai đoạn 1945 - 1954, tuy sự hưng thịnh của mỗi thể loại có khác nhau ở từng khu vực và giai đoạn. […]. Vùng chiến khu phát triển được thể loại kịch nói, đề tài của những vở này phần lớn vẫn là cuộc chiến đấu chung mà lịch sử dân tộc đang trải qua. Có những vở kịch, chủ yếu là kịch hát, vượt khỏi ranh giới chiến khu bưng biền, phục vụ khán giả ở cả hai nơi và có sức sống bền lâu”.
(Còn tiếp)
Như Hà
Tags