Béo phì không chỉ gây ảnh hưởng đến sức khỏe, hoạt động, sinh hoạt, tâm lý mà còn phải coi đó là bệnh lý và cần được khám, điều trị tại các chuyên khoa về béo phì.
Báo động tình trạng thừa cân, béo phì
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới, béo phì là tình trạng tích tụ mỡ quá thừa trong cơ thể tới mức ảnh hưởng có hại tới sức khỏe và cuộc sống con người.
Tổ chức Y tế thế giới dùng chỉ số khối cơ thể (BMI) để nhận định tình trạng gầy béo.
Chỉ số khối cơ thể (BMI) được tính theo công thức:
Trên thế giới hiện nay có 2,1 tỷ người bị thừa cân và béo phì, chiếm trên 30% dân số.
Với mức độ gia tăng như hiện tại, vào năm 2030 sẽ có khoảng 50% dân số thế giới bị thừa cân và béo phì. Tuy nhiên, tỷ lệ thừa cân và béo phì ngày càng có xu hướng trẻ hóa, hiện nay có 41 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị xếp loại béo phì và 340 triệu trẻ vị thành niên trên toàn thế giới bị béo phì.
Tại Việt Nam, tình trạng thừa cân và bệnh béo phì cũng đang ngày một gia tăng, theo số liệu của viện dinh dưỡng tỷ lệ thừa cân béo phì ở người trưởng thành hiện nay là 6,6%.
TS.BS Bùi Thanh Phúc – Phó trưởng khoa Cấp cứu Tiêu hóa, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cho biết: Thừa cân, béo phì – Căn bệnh thời hiện đại ngày càng gia tăng với tốc độ báo động, là mối đe dọa làm giảm tuổi thọ và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Béo phì không chỉ gây ảnh hưởng đến sinh hoạt, thẩm mỹ mà còn gây ra nhiều nguy cơ như mắc các bệnh lý về tim mạch, đái tháo đường, gan nhiễm mỡ, xơ gan, các bệnh lý cơ xương khớp, vô sinh,… Béo phì và thừa cân cũng làm tăng nguy cơ tử vong hơn so với những bệnh nhân có cân nặng bình thường.
Béo phì là bệnh lý cần được điều trị. Giảm chế độ ăn, tăng cường tập luyện, dùng thuốc là các phương pháp điều trị thông thường nhưng không có tác dụng về mặt lâu dài. Béo phì có thể giảm xuống nhưng sau 5 năm có tới 90% các trường hợp quay lại cân nặng ban đầu thậm chí béo hơn. Bên cạnh đó, trên thị trường cũng có một số sản phẩm có thể gây chán ăn hoặc giảm hấp thụ nhưng về lâu dài cũng gây ra những hệ lụy như thiếu chất, niêm mạc dạ dày bị ảnh hưởng…
Theo GS Trần Bình Giang – Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, Chủ tịch Hội Ngoại khoa và Phẫu thuật Nội soi Việt Nam: Trong những năm gần đây, tỷ lệ béo phì ở người Việt Nam ngày càng gia tăng. Số các ca bệnh béo phì tìm đến Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức ngày càng nhiều. Đến nay, đã có gần 300 trường hợp lựa chọn phương pháp phẫu thuật nội soi thu hẹp dạ dày và thắt đai dạ dày nhằm ngăn cản việc ăn và số lượng thức ăn thu nạp vào cơ thể. Đa số các trường hợp đến bệnh viện đều không thể kiểm soát được tình trạng béo phì bằng cách thay đổi lối sống và không đáp ứng với các phương pháp trị liệu khác. Những bệnh nhân này có chỉ số BMI lớn hơn 40kg/m2 và thường có một số bệnh lý đi kèm như huyết áp cao, đau khớp, vô sinh nguyên phát, đái tháo đường, tăng li.pid máu, gan nhiễm mỡ, tăng cho.les.te.rol máu…
Hậu quả của thừa cân, béo phì
Béo phì gây cho người bệnh một số hậu quả không mong muốn như đái tháo đường, tim mạch, thoát hóa khớp, vô sinh, ung thư… Dưới đây chúng tôi sẽ chia sẻ với bạn đọc một số hậu quả chính:
Về bệnh đái tháo đường thì theo số liệu của tổ chức y tế thế giới có tới 87% người bệnh đái tháo đường bị thừa cân và béo phì. Những trẻ vị thành niên bị béo phì làm tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường khi trưởng thành. Một nghiên cứu cho thấy những người bệnh tăng cân 8 – 10kg thì nguy cơ đái tháo đường là tăng 2,7 lần.
Thừa cân và béo phì có mối liên hệ mật thiết với nguy cơ mắc các bệnh tim mạch như bệnh mạch vành, tăng huyết áp, suy tim. Nhiều nghiên cứu cho thấy 78% người bệnh nam giới và 60% người bệnh nữ giới cao huyết áp đều có cân nặng ở mức thừa cân hoặc béo phì. Chỉ số khối cơ thể (BMI) tăng lên 5 đơn vị làm tăng nguy cơ bị cao huyết áp tăng lên 1,5 lần và vòng bụng tăng lên 10cm làm tăng nguy cơ cao huyết áp lên 1,25 lần.
Về thoái hóa khớp thì người bệnh béo phì có nguy cơ thoái hóa khớp háng và phải phẫu thuật thay khớp tăng gấp 1,12 lần so với các người bệnh có thể trọng bình thường.
Ngoài ra béo phì làm tăng tỷ lệ vô sinh ở nữ giới. Béo phì ảnh hưởng đến khả năng sinh sản ở phụ nữ là do thay đổi chức năng của trục dưới đồi – tuyến yên – buồng trứng. Béo phì làm tăng insulin máu do đó có liên quan mật thiết với cơ chế bệnh sinh của buồng trứng đa nang. Bên cạnh đó béo phì làm giảm nồng độ testosterone trong máu ở nam giới qua đó làm tăng tỷ lệ rối loạn cương dương và vô sinh ở nam, giảm số lượng và chất lượng của tinh trùng.
Một trong các hậu quả khác của béo phì là ảnh hưởng đến tâm lý của người bệnh. Họ bị phân biệt, kỳ thị về cân nặng dẫn đến tổn hại về thể chất và tâm lý. Bên cạnh đó thì béo phì làm tăng nguy cơ các bệnh ung thư đại trực tràng, ung thư vú, ung thư thực quản và tăng nguy cơ tử vong hơn.
Không chỉ gây tác động lên cá nhân bị thừa cân và béo phì mà nó còn ảnh hưởng tới kinh tế xã hội vì phải dành chi phí cho việc điều trị bệnh và các bệnh liên quan, gián tiếp giảm năng suất lao động do bệnh lý kèm theo và cảm giác không thoải mái trong cuộc sống như bức bối về mùa hè, tê buốt chân tay… làm giảm hiệu suất lao động.
Điều trị thừa cân, béo phì
Chế độ ăn
Nguyên lý chung cho điều trị béo phì không can thiệp phẫu thuật là làm giảm lượng mỡ thừa thông qua việc làm giảm năng lượng đưa vào cơ thể. Mục tiêu của các phương pháp ăn kiêng là làm giảm 10% trọng lượng cơ thể của bệnh nhân béo phì. Ở những bệnh nhân béo phì có BMI trên 35 hoặc BMI trên 30 kèm theo bệnh lý đái đường thì mục tiêu cần đạt được lên tới 15- 20% trọng lượng cơ thể. Có nhiều loại chế độ ăn:
– Chế độ ăn giảm năng lượng hay giảm béo
– Chế độ ăn giảm năng lượng nhiều protein.
– Chế độ ăn rất thấp calo (< 1000 kcal/ngày).
Điều trị thuốc
Cục quản lý dược của Mỹ hiện nay cấp phép cho một số loại thuốc lưu hành trên thị trường: phen.ter.mine, or.lis.tat, phen.ter.mine/to.pi.ram.ate, lor.ca.se.rin, nal.tre.xone và li.rag.lu.tide. Cơ chế của các thuốc này đều tác dụng lên thần kinh trung ương làm giảm cảm giác đói và thèm ăn, riêng orlistat làm giảm hấp thu chất béo trong thức ăn. Thuốc điều trị béo phì được chỉ định khi bệnh nhân điều trị bằng chế độ ăn và hoạt động thể lực thất bại, bệnh nhân có BMI trên 27 kèm theo bệnh phối hợp hoặc BMI trên 30. Hầu hết các thuốc điều trị béo phì có hiệu quả giảm cân từ 3% đến tối đa là 7% trọng lượng cơ thể tùy từng loại. Tuy nhiên thuốc giảm béo đều có tác dụng phụ và khi dừng dùng thuốc thì có tới 80% các bệnh nhân tăng cân trở lại.
Các chuyên gia của Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức khuyến cáo, các bệnh nhân béo phì không nên tự mua và sử dụng các loại thuốc không rõ nguồn gốc trên thị trường vì sẽ gây ra những biến chứng và tác dụng không mong muốn có thể ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe của bệnh nhân.
Vận động thể lực
Ở những bệnh nhân béo phì không hoạt động thể lực hay không tập thể dục làm tăng nguy cơ bị các bệnh lý tim mạch và đái tháo đường. Hiệu quả giảm cân của việc hoạt động thể lực hay tập thể dục thay đổi tùy mức độ và thời gian tập luyện, mức độ giảm cân cũng thay đổi tùy thuộc từng bệnh nhân.
Điều trị thừa cân, béo phì bằng phẫu thuật
Phẫu thuật điều trị bệnh béo phì được phát triển từ những năm 1960, trước đó béo phì mức độ nặng hiếm gặp. Chủ yếu phẫu thuật béo phì bắt đầu với các phẫu thuật nối tắt hoặc làm ngắn ruột non, tiếp theo đó phẫu thuật giảm béo can thiệp vào dạ dày (nối tắt dạ dày hoặc tạo hình dạ dày). Từ đó các phẫu thuật béo phì ngày một phát triển.
Ngày nay cùng với sự phát triển của công nghệ và nội soi, phẫu thuật nội soi ngày một chiếm ưu thế trong phẫu thuật giảm béo và là xu hướng phát triển của chuyên ngành này. Với rất nhiều loại phẫu thuật giảm béo việc giảm cân nặng ở các bệnh nhân béo phì có hiệu quả rõ rệt, cùng với giảm cân các bệnh phối hợp với béo phì như các rối loạn chuyển hóa: đái tháo đường, tăng mỡ máu, gan nhiễm mỡ, cao huyết áp, bệnh lý mạch vành, suy tim… cũng cải thiện đáng kể. Mỗi phương pháp phẫu thuật béo phì đều có ưu nhược điểm riêng. Tùy từng trường hợp bệnh nhân cụ thể phẫu thuật viên sẽ tư vấn và lựa chọn phẫu thuật phù hợp.
Hiện nay, hai phương pháp điều trị đang được sử dụng nhiều nhất là phẫu thuật nội soi đặt vòng thắt dạ dày và phẫu thuật nội soi cắt dạ dày hình ống.
Tết nào cũng tiếp nhận hàng loạt trẻ béo phì, Viện Dinh dưỡng Quốc gia mách cha mẹ nên chuẩn bị 7 loại thức ăn để con không thừa chấtTags