(Thethaovanhoa.vn) - Phát triển công nghiệp là nhiệm vụ hàng đầu để nước ta thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, chính công nghiệp, khai thác khoáng sản là các ngành kinh tế gây tác động mạnh nhất đến môi trường, tài nguyên, sức khỏe, an toàn và trật tự xã hội. Có thể nói, ô nhiễm môi trường luôn đồng hành với phát triển các dự án công nghiệp và khai thác khoáng sản.
- Hà Nội: Kiểm soát ô nhiễm môi trường do sử dụng túi ni lông
- Tổn thất do ô nhiễm môi trường lên tới 5,5% GDP hàng năm
Sau 30 năm đổi mới, tiềm năng công nghiệp của Việt Nam đã tăng vượt bậc cả về số lượng các cơ sở sản xuất, năng lực sản xuất, tỷ trọng trong GDP toàn ngành kinh tế, trình độ công nghệ. Tuy vậy, với tốc độ tăng trưởng nhanh về công nghiệp và khai thác khoáng sản, nếu không gắn kết có hiệu quả với kiểm soát ô nhiễm, môi trường nước ta đang có nhiều biểu hiện suy thoái và sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức mới.
Thực trạng ô nhiễm
Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trên địa bàn cả nước ước tính có 15 khu kinh tế ven biển với tổng diện tích mặt đất và mặt nước hơn 697.800ha; 28 khu kinh tế cửa khẩu, thuộc địa bàn 21/25 tỉnh biên giới đất liền; 298 khu công nghiệp với tổng diện tích đất tự nhiên hơn 81.000ha.
Trong đó, 209 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 54.060 ha; 878 cụm công nghiệp với tổng diện tích 32.841ha. Nhìn chung, các khu công nghiệp đã đóng góp rất lớn cho phát triển kinh tế, xã hội với giá trị sản xuất công nghiệp bình quân trên 1ha đất đã cho thuê đạt khoảng 1,6 triệu USD/ha/năm.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ tính đến năm 2012, các khu công nghiệp đang tạo việc làm cho hơn 1,6 triệu lao động trực tiếp và gần 1,8 triệu lao động gián tiếp. Nhưng ngoài một số khu công nghiệp đã chú trọng đầu tư các hệ thống xử lý chất thải và tuân thủ tốt các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, công tác quản lý môi trường và kiểm soát ô nhiễm ở nhiều nơi còn nhiều hạn chế.
Đây là nguyên nhân gây ô nhiễm, tạo sức ép lớn đến môi trường và xã hội trong nhiều năm gần đây. Ước tính có khoảng 79% tổng số khu công nghiệp đang hoạt động đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung, các công trình này dù đã đi vào hoạt động nhưng nhiều nơi hiệu quả xử lý không cao, chưa đạt quy định của các Quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam (QCVN).
Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam là nơi tập trung nhiều khu công nghiệp và dự án FDI lớn nhất cả nước. Mặc dù tỷ lệ xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung ở khu vực này cao nhất nước, nhưng tình trạng vi phạm các quy định về môi trường vẫn xảy ra.
Ô nhiễm do nước thải công nghiệp kết hợp với nước thải đô thị đã gây ô nhiễm nghiêm trọng cho nhiều kênh rạch ở vùng ven TP.Hồ Chí Minh như Tham Lương, Ba Bò, Thầy Cai, An Hạ…
Nhiều doanh nghiệp dùng các thủ đoạn xây dựng hệ thống ngầm kiên cố xả thẳng ra sông, rạch, chẳng hạn như Công ty Hào Dương, Phạm Thu, Tường Trung, Tân Nhật Dũng tại TP.Hồ Chí Minh.
Hoặc lợi dụng thủy triều lên xuống để pha loãng nước thải chưa qua xử lý đưa ra môi trường như Công ty cổ phần Sonadezi Long Thành-Đồng Nai . Ðặc biệt nghiêm trọng là Công ty Vedan (Đài Loan) đã bơm xả trực tiếp một lượng lớn dịch thải sau lên men với nồng độ các chất ô nhiễm rất cao ra sông Thị Vải, gây ô nhiễm sông trên một phạm vi rộng.
Gia tăng lưu lượng, khối lượng chất thải
Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Trình, Viện Khoa học môi trường và Phát triển nhận xét: Thực hiện đúng Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp nêu trên, Việt Nam có thể cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 theo chỉ tiêu tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP chiếm 42-43%. Nhưng với tốc độ tăng trưởng nhanh về công nghiệp và khai thác khoáng sản, nếu không gắn kết có hiệu quả với kiểm soát ô nhiễm môi trường, nước ta sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức mới.
Hiện nay lưu lượng nước thải phát sinh tại 209 khu công nghiệp nếu được lấp đầy sẽ là 600.000m3/ngày đêm, hệ số phát sinh nước thải khoảng 11,1m3/ha /ngày đêm. Theo tốc độ tăng trưởng công nghiệp 7%/năm, đến năm 2020 lưu lượng nước thải từ các khu công nghiệp 900.000m3/ngày đêm, tăng hơn năm 2014 tới 1,5 lần.
Đó là chưa kể nước thải từ các cơ sở nằm ngoài khu công nghiệp, cụm công nghiệp, nhất là từ các mỏ khoáng sản (khai thác than, bauxit, titan, wolfram, chì, kẽm...) còn lớn hơn nhiều so với lưu lượng nước thải từ các khu công nghiệp.
Cũng theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, năm 2011 mỗi ngày các khu công nghiệp nước ta thải ra khoảng 8000 tấn chất thải rắn, tương đương khoảng 3 triệu tấn một năm. Lượng chất thải rắn đang tăng lên cùng với việc gia tăng tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp. Nếu tính trung bình cả nước, năm 2005 - 2006, một ha diện tích đất cho thuê phát sinh chất thải rắn khoảng 134 tấn/năm, đến năm 2008 - 2009 con số này đã tăng lên 204 tấn/năm (tăng 50%).
Sự gia tăng phát thải trên đơn vị diện tích đã phản ánh sự thay đổi trong cơ cấu sản xuất công nghiệp, xuất hiện các ngành có mức phát thải cao và quy mô ngày càng lớn, nên có dự báo tổng phát thải chất thải rắn từ các khu công nghiệp năm 2015 sẽ vào khoảng 6 đến 7,5 triệu tấn/năm; đến năm 2020 đạt từ 9 đến 13,5 triệu tấn/năm, cao hơn hiện nay 1,8 lần.
Số liệu này chưa tính tới khối lượng chất thải rắn (xỉ thép, vật liệu phế bỏ chứa hóa chất nguy hại) của Khu Liên hợp gang thép Formosa có thể lên tới trên 5 triệu tấn/năm vào năm 2020. Khối lượng chất thải rắn phát sinh do công nghiệp khai thác than, sắt, các kim loại màu (đất đá chứa chất thải), đặc biệt là bauxit (bùn đỏ và đất đá chứa chất thải) còn cao nhiều lần so với chất thải rắn phát sinh từ các khu công nghiệp.
Ngoài ra trong chất thải rắn công nghiệp, lượng chất thải rắn nguy hại chiếm tỷ lệ đến 20 - 30 % (tỷ lệ này ở Thái Nguyên là 26,6%). Do vậy ảnh hưởng của chất thải rắn công nghiệp và khai thác khoáng sản đến sức khỏe, cảnh quan và các hệ sinh thái tự nhiên sẽ rất nghiêm trọng nếu công tác kiểm soát loại chất thải này kém hiệu quả.
Theo Quy hoạch phát triển công nghiệp và khai thác khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn 2030 các ngành công nghiệp điện tử, hóa chất, lọc hóa dầu, luyện kim sẽ có tốc độ tăng trưởng nhanh, chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong tổng GDP công nghiệp. Đây là các ngành không chỉ phát sinh khối lượng lớn chất thải mà còn gây nguy cơ cao đối với môi trường và sức khỏe do chất thải chứa hàm lượng lớn các chất có độc tính cao.
Nước thải từ Khu Liên hợp gang thép Formosa Hà Tĩnh có lưu lượng đến 45.000m3/ngày đêm, chứa hàm lựợng rất cao phenol, xyanua, crom, COD, các chất rắn lơ lửng. Bằng mô hình dự báo lan truyền ô nhiễm do lượng nước thải này, đã chứng minh rằng ngay cả khi nước thải được xử lý đạt QCVN52:2013/BTMT nước vịnh Sơn Dương (vùng nhận nước thải), nhưng vẫn không đạt QCVN đối với nước biển ven bờ cho nuôi trồng thủy sản, du lịch.
Nước thải từ các khi liên hợp lọc hóa dầu chứa hàm lượng cao các chất hữu cơ bền vững, dầu mỡ, kim loại nặng, phenol. Công nghiệp điện tử - ngành tạo giá trị xuất khẩu rất lớn trong vài năm gần đây và nhiều năm tới lại tạo ra khối lượng lớn chất thải rắn có chứa các kim loại bán dẫn, đất hiếm, đặc biệt một số kim loại nặng có độc tính rất cao như As, Se, Sb, Hg…
Do đó chất thải rắn điện tử có thể được xem là chất thải nguy hại. Nước thải, chất thải rắn, đặc biệt bùn đỏ từ các mỏ bauxit chứa hàm lượng cao các chất kiềm, kim loại. Nước thải và nước chảy tràn từ các mỏ đa kim chứa hàm lượng cao các kim loại nặng.
Với một số dự báo sơ bộ nêu trên có thể kết luận: Phát triển các ngành công nghiệp và khai thác khoáng sản theo quy hoạch đến 2020, tầm nhìn đến năm 2030 sẽ tạo nên sức mạnh cho nền kinh tế Việt Nam, nhưng đồng thời cũng tạo các nguy cơ cao đối với môi trường chủ yếu là do gia tăng nhanh khối lượng, lưu lượng nước thải, khí thải, chất thải rắn công nghiệp, chất thải rắn nguy hại.
Mặt khác cũng làm gia tăng các thành phần có độc tính cao trong các loại chất thải. Đây sẽ là nguồn gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, chất lượng môi trường, đa dạng sinh học và tổn thất về kinh tế.
TTXVN/Văn Hào
Tags